Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật Giáo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật Giáo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thiền và Cách Thực Hành Thiền Trong Cuộc Sống

                                  

                **Thiền và Cách Thực Hành Thiền Trong Cuộc Sống**


**Thiền** là một phương pháp giúp tâm trí đạt được sự bình an, tĩnh lặng và tỉnh thức. Đây là một hành trình mà bạn không chỉ khám phá bên ngoài mà còn tìm hiểu chính bản thân mình từ sâu thẳm bên trong. Thiền giúp bạn cải thiện sự tập trung, giảm căng thẳng, lo âu và đạt được một trạng thái tinh thần thanh thản, yên bình.


Có nhiều phương pháp thiền khác nhau, nhưng dưới đây là ba phương pháp phổ biến nhất để bắt đầu thực hành.

                            **Phương Pháp 1: Tập Trung Vào Hơi Thở**


Phương pháp này có lẽ là phương pháp thiền cơ bản và dễ tiếp cận nhất, phù hợp cho cả những người mới bắt đầu và những người đã có kinh nghiệm.


1. **Chọn một tư thế thoải mái**: Bạn có thể ngồi kiết già, bán già trên sàn hoặc ngồi trên ghế. Điều quan trọng là giữ lưng thẳng và cơ thể được thả lỏng nhưng không uể oải.

2. **Tập trung vào hơi thở**: Hãy đưa toàn bộ sự chú ý của mình vào hơi thở tự nhiên. Cảm nhận từng hơi thở vào qua mũi, từng hơi thở ra. Bạn có thể cảm nhận hơi thở nơi bụng hoặc ở mũi.

3. **Quay lại hơi thở khi bị phân tâm**: Nếu suy nghĩ xuất hiện, đừng lo lắng hay bực bội. Chỉ cần nhận biết rằng mình đã bị phân tâm và nhẹ nhàng đưa sự chú ý quay lại với hơi thở.


**Tác dụng**: Phương pháp này giúp bạn làm dịu tâm trí, giảm căng thẳng và dần dần làm tăng khả năng tập trung. Bạn có thể bắt đầu bằng vài phút mỗi ngày, sau đó tăng dần thời gian khi bạn cảm thấy thoải mái.



                                 **Phương Pháp 2: Quan Sát Suy Nghĩ (Thiền Vipassana)**


Phương pháp thiền này giúp bạn phát triển khả năng **tỉnh thức** thông qua việc quan sát suy nghĩ và cảm xúc một cách khách quan mà không phản ứng lại.


1. **Ngồi trong tư thế thoải mái**: Tương tự như phương pháp tập trung vào hơi thở, hãy giữ lưng thẳng và cơ thể thả lỏng.

2. **Quan sát suy nghĩ xuất hiện**: Khi bạn thiền, các suy nghĩ và cảm xúc sẽ xuất hiện tự nhiên. Thay vì cố gắng ngăn chặn chúng, bạn chỉ cần nhận biết rằng chúng đang có mặt.

3. **Không phản ứng hay can thiệp**: Điều quan trọng là đừng phán xét hoặc bị cuốn vào suy nghĩ của mình. Bạn chỉ đơn giản là quan sát chúng đến và đi, giống như người đứng ngoài nhìn mây bay qua bầu trời.


**Tác dụng**: Qua việc thực hành, bạn sẽ phát triển sự tự nhận thức, không còn bị cuốn vào dòng suy nghĩ tiêu cực hoặc lo lắng. Điều này giúp tâm trí dần trở nên thanh thản hơn.


                                          **Phương Pháp 3: Thiền Định Sâu (Samadhi)**


**Samadhi** là trạng thái định, nơi tâm trí không còn bị xao lãng bởi suy nghĩ và cảm xúc. Phương pháp này yêu cầu sự tập trung tuyệt đối vào một đối tượng duy nhất, giúp bạn đạt được sự tĩnh lặng hoàn toàn.


1. **Chọn một không gian yên tĩnh**: Hãy ngồi ở một nơi không bị làm phiền. Tư thế vẫn là ngồi thẳng, giữ cơ thể thoải mái.

2. **Chọn một đối tượng tập trung**: Bạn có thể chọn hơi thở, một câu thần chú, hoặc một hình ảnh tinh thần để làm điểm tập trung.

3. **Duy trì sự tập trung tuyệt đối**: Đưa toàn bộ sự chú ý vào đối tượng bạn đã chọn và giữ tâm trí không bị phân tán. Nếu suy nghĩ xuất hiện, nhẹ nhàng quay lại tập trung mà không phán xét.

4. **Đạt đến trạng thái định**: Với sự kiên trì, bạn sẽ dần đạt đến trạng thái định, nơi tâm trí trở nên vô cùng tĩnh lặng và hoàn toàn tập trung.


**Tác dụng**: Thiền định sâu giúp bạn đạt được sự thanh tịnh tuyệt đối và tăng cường khả năng tập trung cao độ, giúp kiểm soát cảm xúc và suy nghĩ dễ dàng hơn.


                                 **Thiền Trong Cuộc Sống Hàng Ngày (Chánh Niệm)**


Thiền không chỉ giới hạn trong việc ngồi thiền. Bạn có thể thực hành thiền trong mọi hoạt động hàng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi. Khi bạn thực hành thiền trong cuộc sống hàng ngày, điều này được gọi là **chánh niệm**. Chánh niệm giúp bạn luôn nhận thức về hiện tại, không bị cuốn theo suy nghĩ hoặc cảm xúc.


**1. Thiền Đi**

Khi bạn đi bộ, hãy tập trung vào từng bước chân. Cảm nhận sự di chuyển của cơ thể, đôi chân chạm vào mặt đất, nhịp điệu của bước chân. Bạn có thể thực hành thiền đi bất cứ khi nào, không cần đi chậm, chỉ cần duy trì sự tỉnh thức.

**2. Thiền Đứng**

Khi đứng, bạn có thể chú ý đến tư thế của mình. Cảm nhận trọng lực dồn lên đôi chân, sự thẳng của cột sống, và nhận biết từng hơi thở. Điều này giúp bạn giữ sự bình tĩnh và thăng bằng trong tâm trí.


**3. Thiền Nằm**

Khi nằm xuống, hãy nhận biết từng phần của cơ thể, từ đầu đến chân. Cảm nhận sự tiếp xúc với giường, sự thả lỏng của cơ bắp, và để tâm trí chìm vào trạng thái thư giãn.


**4. Thiền Ngồi**

Ngay cả khi ngồi làm việc hoặc học tập, bạn vẫn có thể thiền bằng cách tập trung vào tư thế và hơi thở của mình. Điều này giúp duy trì sự tập trung và hiệu quả công việc.


**Lợi Ích Của Thiền Chánh Niệm Trong Cuộc Sống Hàng Ngày**


**Tâm trí bình tĩnh**: Chánh niệm giúp bạn giữ được sự bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh, không bị cuốn vào cảm xúc tiêu cực.

- **Tăng cường tập trung**: Khi bạn thực hành chánh niệm, khả năng tập trung và làm việc của bạn sẽ được cải thiện rõ rệt.

**Giảm căng thẳng**: Thiền giúp giảm lo âu và căng thẳng, mang lại sự bình an và thanh thản trong tâm hồn.

- **Sống trọn vẹn với hiện tại**: Chánh niệm giúp bạn sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc, thưởng thức cuộc sống một cách sâu sắc và ý nghĩa.


**Cách Duy Trì Thiền Trong Mọi Hoạt Động**


**Bắt đầu từ thiền định**: Trước tiên, hãy thực hành ba phương pháp thiền cơ bản để phát triển khả năng chánh niệm.

 **Thực hành chánh niệm trong những hoạt động nhỏ**: Bắt đầu áp dụng chánh niệm trong những công việc hàng ngày như rửa bát, đi bộ, hoặc làm việc.

**Nhận thức về hơi thở**: Luôn duy trì sự nhận thức về hơi thở trong mọi tình huống giúp bạn quay trở lại với hiện tại.


**Kết Luận**


Thiền là một hành trình phát triển nội tâm, giúp bạn đạt được sự bình an, tĩnh lặng và sự tỉnh thức. Bằng cách thực hành ba phương pháp thiền cơ bản và áp dụng thiền chánh niệm vào cuộc sống hàng ngày, bạn sẽ thấy sự thay đổi rõ rệt trong tâm trí, cảm xúc và cả trong cách bạn trải nghiệm cuộc sống. Thiền không chỉ giúp giảm căng thẳng mà còn mang lại sự cân bằng, hạnh phúc và sự hiện diện trong từng khoảnh khắc.



‘Khách quý’ của những nhân vật quyền lực nhất Hồng Kông

8 LỜI KHUYÊN CUỐI ĐỜI CỦA BẬC THẦY PHÒNG THỦY – ‘Khách quý’ của những nhân vật quyền lực nhất Hồng Kông
Trần Lãng là một trong 10 thầy phong thuỷ nổi tiếng nhất Hồng Kông. Trong cuộc đời, ông đã xem tướng mệnh cho không biết bao nhiêu người, hầu hết đều là những nhân vật nổi tiếng. Tính riêng tại Hồng Kông có thể kể đến: Lý Triệu Cơ, Trịnh Dụ Đồng, Lưu Gia Linh, Chương Tiểu Huệ, Dương Thụ Thành, Dung Tổ Nhi, Tạ Đình Phong, Lê Tư, Lữ Lương Vĩ, v.v… còn có cựu Tổng thống của Indonesia. Họ đều rất tôn trọng Trần Lãng và coi ông như khách quý.


Những câu chuyện lưu truyền về Trần LãngNăm 30 tuổi, Lý Gia Thành chân ướt chân ráo thử sức kinh doanh bất động sản tại Hồng Kông. Một hôm, hai người ngẫu nhiên gặp nhau tại một bữa tiệc. Trần Lãng sau một hồi xem cho Lý Gia Thành, liền hỏi: “Trong cuộc đời ông, kiếm được bao nhiêu tiền thì ông thấy thoả mãn?”. Lý Gia Thành nói: “Tôi có thể kiếm được 30.000.000 đôla Hồng Kông là quá đủ rồi!”. Trần Lãng cười và nói: “Trong mệnh của ông, kho tiền tài vừa không nông, vừa trải rộng khắp nơi, ông sau này sẽ là người giàu có nhất Hồng Kông.Đúng như vậy, chỉ hai năm sau đó, Lý Gia Thành đã thành công trong việc mua bán hai bất động sản lớn ở Hồng Kông. Liên tiếp những năm sau, ông từng bước mở rộng quy mô phát triển sang các lĩnh vực khác. Tập đoàn của ông luôn nằm trong top 10 doanh nghiệp có ảnh hưởng nhất Hồng Kông. Năm 2016, ông được tạp chí Forbes vinh danh là người giàu nhất Hồng Kông và nằm trong top 15 người giàu nhất thế giới với tổng tài sản lên tới 27,8 tỉ USD.Lại cũng rất nhiều năm trước, Trần Lãng đang ăn cơm thì gặp phải một thanh niên trẻ tuổi. Ông liền tới gặp ông chủ công ty giải trí Anh Hoàng và bảo ông ấy hãy nhận cậu bé này vào làm. Ông nói cậu ta tương lai sẽ phát triển rất thuận lợi. Và cậu thanh niên ấy chính là Tạ Đình Phong.8 lời khuyên cuối đời của Trần Lãng:Trước khi qua đời ở tuổi 78, trong lúc chữa trị tại bệnh viện, ông đã nhiều lần đưa ra lời khuyên cũng như lời tâm sự với nhiều người ở đây. Những lời này được ghi chép lại và truyền ra ngoài, gây ra cơn sốt không nhỏ trong cộng đồng mạng tại Hồng Kông.Dưới đây là những lời ông Trần đã nói:1. Tôi vì sao lại muốn giúp mọi người? Bởi vì các bạn sẽ lại giúp được nhiều người hơn nữa.2. Những người có nhiều tiền ấy, kỳ thực đó không phải phúc của một đời trước họ tích được, mà họ đã tu tâm tích đức từ hằng bao nhiêu đời trước nữa rồi. Hiếu kính cha mẹ, tôn sư trọng Đạo, cứu giúp chúng sinh, mới có được địa vị tiền tài như ngày hôm nay.3. Hiện nay có rất nhiều người đi nhầm đường. Họ dùng mọi thủ đoạn và quyền thế hoặc kiến thức bản thân biết được để kiếm tiền. Nhưng họ không biết được bản chất của những việc này đều là duyên phận, bản thân phải có “nhân” thì mới gặt được “quả”. Mà “nhân” ấy gieo bằng việc “hiếu kính cha mẹ, tôn sư trọng Đạo, cứu giúp chúng sinh”.4. Bây giờ tại sao tôi lại chịu khổ như thế này (ông nói đến 3 lần phẫu thuật của mình đã chịu đau đớn rất nhiều), dù tôi có ý tốt muốn giúp mọi người thay đổi số phận, để thành công nhanh hơn một chút, giúp được nhiều người hơn nữa, nhưng vốn là Đạo Trời, ai thay đổi chúng thì đều phải chịu phạt, Ông Trời có cái Lý của Ông.5. Muốn thành công, ngoài phúc đức của bản thân ra, vẫn còn phải có duyên tốt. Người Trung Quốc có câu: “Hoà khí sinh tài”. Đây là câu nói đúc kết từ trí huệ hàng nghìn năm trước. Muốn nói rằng: làm người phải chính nghĩa, thần sắc hoà ái, mới có thể kết nên “duyên tốt”. Sau này chính những người đó sẽ giúp bạn thành công. Tuyệt đối không cậy tiền tài mà nâng cao khẩu khí, tính tình cao ngạo, điều này sẽ làm tổn đức. Người xưa dạy: “Tự mãn chiêu tổn, khiêm tốn thụ lợi” chính là ý này.6. Người làm ăn phải đi con đường chân chính, bản thân lại có “nhân” (phúc đức) thì thành công sẽ sớm đến thôi. Phúc dày thì duyên đến sớm, có muốn vội cũng chẳng được. Là người chân chính cũng chính là đang tạo phúc, làm tấm gương cho người sau học tập, cái phúc này không chỉ vài tỉ có thể tính được. Tuyệt đối không đi con đường bất chính, nếu không sẽ tổn đức rất nhanh. Trong mệnh đáng lẽ kiếm được vài trăm tỉ, làm việc bất chính, bị giáng xuống còn vài tỉ. Bản thân cảm thấy như thế đã là rất thành công rồi, kỳ thực không biết rằng chính vì mình bất chính mà tạo nghiệp nhận báo ứng, cũng không biết hưởng được bao lâu.7. Hiện nay xã hội đều trở nên bại hoại, con người vì cầu danh, cầu lợi mà không từ thủ đoạn, cũng do không có thánh nhân chỉ dẫn, liêm sỉ cũng chẳng còn, chứ đừng nói đến đạo đức nhân nghĩa. Con người ấy mà, nếu muốn đời đời kiếp kiếp hưởng phú quý, thì hãy bảo họ bái sư tầm Đạo, ai ai cũng có liêm sỉ, thì nhân hoạ sẽ ít đi. Nhân hoạ ít, thì thảm hoạ thiên nhiên cũng giảm xuống.8. Mọi người ở đây đều có ảnh hưởng lớn đến xã hội, đều là những người có học thức, được thầy tốt chỉ dẫn, thì hãy đem những điều bản thân học được phổ biến hơn nữa, thì đất nước sẽ ổn định, các nước khác cũng sẽ theo đó mà học. Làm việc này chính là tích được phúc lớn, hành được “quả Thiện” lớn nhất, ai làm thì người đó hưởng được lợi ích, đời đời kiếp kiếp hưởng đại phú đại quý.Sưu tầm

KHÔNG ĂN UỐNG PHI THỜI





GIỚI ĐỨC SA DI THỨ CHÍN:
KHÔNG ĂN UỐNG PHI THỜI


Không ăn uống phi thời là một ĐỨC LY DỤC.Người xuất gia cũng như những người tại gia cần phải học.

Giới Thánh Đức Ly Dục rất cần thiết cho người tu sĩ Phật giáo, vì thế người cư sĩ cũng như người tu sĩ khi đến với Phật giáo phải một lòng cung kính và tôn trọng giới luật này. Nó khởi sự bắt đầuxác định cho mọi người thấy một tu sĩ có phải là một tu sĩ Phật giáo chân chánh hay không chân chánh?

Nếu một tu sĩ phạm giới này thì không phải là tu sĩ Phật giáo chân chánh. Nếu không phạm giới này thì đây mới là tu sĩ chân chánh của đạo Phật.

Nếu ai không coi trọng và tôn kính giới luật này thì người ấy là tu sĩ ngoại đạo.

Ăn uống là sự tiếp thu tứ đại bên ngoài để nuôi dưỡng tứ đại bên trong của sắc thân tứ đại chúng ta. Nhưng ăn uống phải biết tiết độ, không biết tiết độ ăn nhiều quá (bội thực) cơ thể cũng dễ sanh ra bệnh tật, ăn ít quá cũng vậy. Chỉ có ăn uống như thế nào để vừa đủ cho cơ thể không thiếu mà cũng không thừa.

Trong thời gian tu hành của đức Phật, Ngài đã rút ra được một kinh nghiệm! Ăn nhiều quá thì thừa dư chất bổ nên sắc thân sanh ra sắc dục, thùy miên, hôn trầm. Sắc dục, thùy miên, hôn trầm cũng là một loài dục của tâm. Cho nên, người ăn nhiều dễ sanh ra buồn ngủ, lười biếng, dâm dục; nhưng nếu ăn ít quá thì cơ thể thiếu những chất bồi dưỡng, sanh ra yếu đuối, dễ bị bệnh tật và nhiều điều khác nữa.

Từ đời sống vua chúa ăn uống quá nhiều đến đời sống khổ hạnh ăn uống quá ít. Đức Phật đã trải qua kinh nghiệm cuộc sống của mình như vậy, nên Ngài đã xác định: ăn ngày một bữa là đủ cho cơ thể có một sự sống tốt đẹp.

Thưa các bạn! Theo kinh nghiêm tu hành của chúng tôi, người tu sĩ làm việc nhiều hơn người thế tục. Tại sao vậy?

Suốt 24 tiếng đồng hồ người tu sĩ luôn luôn làm việc không những bằng trí óc mà còn lao động bằng tay chân cơ thể, họ có thể đi bộ từ 5 đến 10 cây số, còn đầu óc làm việc không nghỉ ngơi, làm việc như vậy mà ăn ngày chỉ có một bữa ăn, thế mà vẫn khoẻ mạnh, thân ít bệnh đau.

Người đời không biết tưởng ăn nhiều là khoẻ mạnh,ăn nhiều cơ thể phải làm việc nhiều, cơ thể tự động làm việc nhiều thì người mau già, tuổi thọ bị giảm.

Các bạn cứ suy nghĩ những lời nói của chúng tôi, đừng có tin ngay liền. Khi nào tin thì phải chứng nghiệm lời dạy của chúng tôi có kết quả.

Chúng ta nên hiểu ngày ăn mộtbữa khi ăn phải tốn công sức rất nhiều. Trước khi ăn bạn phải lo nấu nướng, trong khi đang ăn uống bạn phải nhai nuốt, thực phẩm vào bao tử phải tiêu hoá, sau khi ăn xong bạn phải rửa bát chén và dọn dẹp.

Nếu ngày ăn ba bữa, quý bạn phải xét thấy rằng quý bạn phải bỏ ramột người lo nấu nướng dọn dẹp. Ngày ngày trôi qua, ngày nào cũng như ngày nào, việc ăn uống chiếm một phần lớn lao trong lao động của các bạn.

Khi bạn ăn nhiều tâm bạn sinh ra dục, do nhiều dục bạn phải gặt hái lấy biết bao nhiêu thứ đau khổ cho cuộc đời của bạn. Bạn có biết không?

Vì ăn uống phải làm việc nhiều như vậy, nên người tu theo đạo Phật, chỉ ăn ngày một bữa. Vì thế, mà người ta sống nhàn nhã vô sự, thoải mái. Ngày một bữa giúp cho bạn có nhiều thì giờ ngồi chơi sống một mình. Khi cảm thấy sống một mình được an trú thì lúc bấy giờ thân tâm của bạn thật là hạnh phúc.

Giới Thánh đức không ăn uống phi thời là để xác định tu sĩ giả hay tu sĩ thật như chúng tôi đã nói ở trên. Người giả tu, tâm còn tham dục phần nhiều phải lộ diện về mặt ăn uống phi thời.

Cho nên, giới này là để giúp cho người cư sĩ dễ nhận xét người tu sĩ Phật giáo giữ giới luật đúng hay là sai.

Đúng là những vị sư Thầy ấy phải ăn ngày một bữa. Sai là những vị Thầy ăn uống phi thời.

Như vậy hiện giờ quý Thầy tu sĩ Phật giáo như thế nào? Chắc chắn quý vị đã rõ. Chỉ có một giới không ăn phi thời thì quý vị thấy rõ sự thật tu sĩ Phật giáo hiện giờ chỉ là những tu sĩ chạy theo dục lạc ăn, ngủ, danh lợi chứ không phải ly dục như Phật dạy. Đó là tu sĩ giả.

Giới Đức Thánh Sa Di không ăn uống phi thời giúp cho tu sĩ tám điều lợi ích:

1- Thứ nhất có nhiều thì giờ tu tập.

2- Thứ hai tâm ly dục về sự ăn uống.

3- Thứ ba cơ thể ít bệnh tật.

4- Thư tư ít buồn ngủ, hôn trầm.

5- Thứ năm xứng đáng là một tu sĩ Phật giáo sống đời thiểu dục tri túc.

6- Thứ sáu đời sống vượt hơn người chưa xuất gia.

7- Thứ bảy cơ thể nghỉ ngơi ít làm việc.

8- Thứ tám người cư sĩ rất mến phục và tôn kính.


Muốn nhập các loại định từ Sơ thiền đến Tứ thiền và thực hiện Tam Minh thì người tu sĩ phải ăn ngày một bữa, nếu không ăn một bữa được thì chẳng bao giờ nhập được các loại Thánh định này và cũng không bao giờ thể hiện được Tam Minh. Như vậy, chúng ta thấy ăn ngày một bữa thật là quan trọng cho cuộc đời tu học của chính mình. Vì thế, đức Phật dạy: “thừa tự pháp chứ đừng thừa tự thực phẩm”. Chúng ta ai cũng biết: “Ăn để sống để tu tập giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết”. Người quyết chí tu hành thì chớ nên ăn uống phi thời.

Người tu sĩ Phật giáo là người muốn biến cảnh thế gian thành cảnh Cực Lạc, Thiên Đàng. Vì Cực Lạc, Thiên Đàng là nơi để cho tâm hồn của mọi người được an lạc, thanh tịnh và vô sự, chứ không phải là nơi sống để ăn uống, ca hát, nhạc kịch v.v.. Đừng nghĩ rằng: cõi Cực Lạc, Thiên Đàng là nơi lều quán buôn bán ăn uống, vui chơi ca hát. Vì buôn bán ăn uống vui chơi ca hát là còn sống trong cảnh dục lạc thế gian, thì làm sao gọi đó là cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc được. Phải không quý vị?

Cho nên ngay tại thế gian chúng ta sống ngày ăn một bữa là chuẩn bị cho mình một cuộc sống nơi Cực Lạc, Thiên Đàng hay nói cách khác là chúng ta đã biến cảnh thế gian thành Cực Lạc, Thiên Đàng đó rồi.

Bởi vậy ăn ngày một bữa, chúng ta suy ngẫm cho thật kỹ, thì chúng ta cảm thấy thân, tâm mình thanh thản, an lạc và vô sự. Thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự thì không phải nơi đó là Thiên Đàng, Cực Lạc sao?

Có chú Huệ Cần xin vào tu viện tu tập. Mới những ngày đầu chú quá thích bảo: “Ôi! Đời sống ở đây như Tiên trên trời, ăn ngày một bữa, không làm gì cả, ở không suốt cả ngày, ngồi chơi thảnh thơi thật là tuyệt vời’’ . Nhưng lần lượt tâm đời của chú sống dậy chú cảm thấy cô đơn, buồn tẻ, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ nhà cửa, nhớ bạn bè v.v.. kế tiếp hôn trầm, thùy miên, loạn tưởng khởi lên tấn công đánh chú. Do đó, chú chịu hết nổi, liền bỏ cảnh giới Tiên chạy về nhà sống cảnh trần tục với cha mẹ.

Bởi vậy, ai cũng muốn tu tập để được vãng sanh về Cực Lạc, để được sanh về cõi Trời, để được về cảnh giới Niết Bàn, để được trở về bản tánh của mình. Nhưng khi được trở về thì ai cũng chạy trốn.

Ở thế gian mọi người cứ ngỡ tưởng rằng: ở cõi Cực lạc, Thiên đàng cũng giống như ở thế gian, có nhiều lều quán ăn uống ca nhạc suốt ngày đêm, v.v.. Sự nghĩ tưởng như vậy không đúng, các bạn ạ!

Cõi Trời, cõi Cực lạc, ở đó không có lều quán buôn bán ăn uống và người ta cũng không có ăn uống như quý bạn! Ở đó chỉ có cuộc sống trầm lặng độc cư, họ không có nói chuyện với nhau, vì thế mới gọi là cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.

Các bạn có biết không? Với tâm hồn người thế gian của chúng ta mà sống trong các cõi đó thì cô đơn buồn lắm các bạn ạ! Chắc chắn các bạn cũng không hơn gì chú Huệ Cần.

Tưởng cõi Cực Lạc Tây Phương và cõi Thiên Đàng là sung sướng lắm, là đầy đủ lắm, muốn chi có nấy. Thưa các bạn! Các bạn tưởng như vậy là sai, vì cõi đó người ta không còn dục, nên không còn ai ham muốn vật gì hết. Ăn, ngủ, vui chơi ca hát người ta cũng không ham muốn, nên ở đó vắng lặng. Ở đó người ta không thích ăn, nên người ta cũng không có làm việc như ở cõi thế gian, họ sống vô sự rất là thảnh thơi, an nhàn. Vả lại người ta không có nói chuyện với nhau, thường sống cô đơn một mình, nên cảnh giới ở đó rất là im lặng, không có tranh luận hơn thua, không có tranh cãi, đánh nhau, không có đua đòi vật chất như ở thế gian.

Để được vào cảnh giới đó nên đức Phật trang bị cho chúng ta mười giới Thánh Sa Di. Khi chúng ta bỏ thân này thì được vào ngay liền. Muốn vãng sanh Cực Lạc, muốn lên Thiên Đàng, muốn vào Niết Bàn mà ngay bây giờ các bạn không tập sống đời sống trên các cõi đó thì các bạn làm sao sống trong các cõi đó được. Phải không các bạn?

Các bạn về tu viện Chơn Như là các bạn đang tập sống làm Thánh A La Hán, làm Bồ Tát, làm Phật, để sau này rời bỏ thế gian về các cõi đó. Thế mà về đây các bạn sống không được thì các bạn đừng mong về các cõi đó được. Dù có cho các bạn về đó thì chừng ít hôm các bạn cũng xách gói chạy về trần gian sống trong mùi tục lụy khổ đau.

Nếu các bạn không tu tập ăn ngày một bữa, không sống độc cư trầm lặng thì làm sao quý bạn sống hòa nhập với các cõi đó được. Vì thế đức Phật thích Ca Mâu Ni biết rất rõ điều này, nên Ngài mới dạy chúng ta ăn ngày một bữa và cấm không cho ca hát và nghe ca hát là để chúng ta có dịp hội tụ, hoà nhập vào các thế giới chư Phật, thế giới Niết bàn.

Nếu quý vị không chuẩn bị cho mình sống làm quen với thế giới chư Bồ Tát, chư Phật thì chúng tôi nghĩ rằng quý vị khó mà hoà nhập vào một đời sống khác hơn đời sống thế tục.

Cho nên giới không ăn uống phi thời là một giới rất quan trọng cho quý vị để hoà nhập vào đời sống Thánh thiện.

Ăn ngày một bữa chỉ có những Bồ Tát, những A La Hán và chư Phật thì mới sống nổi, còn không sống được như vậy, thì không thể gọi đó là Thánh Tăng, Thánh Ni, hay Thánh Cư Sĩ được.

Thánh đức ly dục ly ác pháp trong ăn uống mà người tu sĩ Phật giáo cần phải tu tập và giữ gìn nghiêm chỉnh thì sự ganh đua bon chen tìm danh lợi, tìm ăn uống mới chấm dứt.

Người ăn ngày một bữa thì còn gì mà bon chen danh lợi. Phải không quý bạn? Người đời chỉ vì ăn uống nên biến họ thành ra là loài động vật, loài động vật chỉ biết ganh đua cho sự sống để ăn uống mà thôi.

Người tu sĩ khi ăn ngày một bữa thì chùa to cũng không ham, Phật lớn cũng không thích, chỉ còn thích sống với một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.

Ngày tháng trôi qua với nội tâm an ổn, không có một pháp nào tác động vào tâm hồn họ được, ngay cả mọi cảm thọ khổ đau cũng không làm lay chuyển tâm họ được.

Giới cấm không ăn phi thời nghe thì rất đơn giản, nhưng mấy ai sống đúng, làm đúng, chỉ vì tâm họ chưa ly dục ly ác pháp, nên sự tham đắm về ăn uống còn nặng nề, khiến cho họ tìm cách bẻ vụn giới, bằng ăn uống cách này hoặc bằng cách khác như: không ăn, thì họ uống sữa hay nước trái cây, hoặc chanh đường, bột nước khuấy loãng. Tuy sống như vậy nhưng đó cũng là hình thức ăn uống phi thời. Những hành động này đều có thể vi phạm Thánh hạnh ly dục.

Con đường tu tập giải thoát để ra khỏi nhà sanh tử, thì giới hạnh không ăn uống phi thời là một điều hết sức quan trọng và rất cần thiết cho người tu sĩ đệ tử Phật.

Vì Thánh hạnh đệ tử Phật là Thánh hạnh giải thoát, chúng ta há nỡ nào vi phạm để mọi người khinh chê Phật giáo, để cho tâm mình không được giải thoát.

Vì Thánh hạnh của một vị Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ chúng ta há nỡ nào ăn uống phi thời để đánh mất Thánh hạnh ly dục ly ác pháp này,thì còn gì là một tu sĩ mang đầy đủ ý nghĩa giải thoát của đạo Phật.

Thánh hạnh này không giữ trọn thì con đường tu kia làm sao chứng được quả Thánh. Thánh sao còn ăn uống phi thời.

Người cư sĩ phải biết cúng dường và tôn kính những vị Thánh Tăng, Thánh Ni, họ là những vị không phạm giới, không phá giới. Mười Giới Đức Thánh Sa Di rất lợi ích cho mình, cho Phật giáo.

Tại sao vậy? Tại vì một vị Thánh Tăng thân tâm của họ đã ly dục ly ác pháp.

Người thân tâm đã ly dục ly ác pháp mà quý Phật tử được cúng dường thì phước báu vô lậu kia có ngày quý vị sẽ được thọ hưởng. Còn cúng dường cho những vị Tăng phạm giới luật ăn uống phi thời thì phước báo vô lậu quý vị sẽ không còn có dịp gặp nữa. Riêng tu sĩ phạm giới nàykiếp sau sẽ làm thân trâu bò, tôi, tớ, quân lính hầu hạ quý vị.

Giới đức Thánh không ăn uống phi thời, người tu sĩ Phật giáo cần phải cố gắng giữ gìn vì đó là một hạnh ly dục của bậc Thánh Tăng, Thánh Ni và Thánh cư sĩ không phải người phàm phu sống được. Xin quý vị lưu ý cho.

Trưởng lão Thích Thông Lạc

ý nghĩa đám giỗ mong bà con gia đình anh em bạn bè nên đọc .


Đám giỗ ta làm gì?

Tháng trước tôi đến dự đám giỗ bố của một người bạn tại ngoại ô thủ đô Hà Nội. Tôi thật bất ngờ khi ở đây có phong tục ăn thịt chó vào ngày giỗ. Mô Phật! Hơn thế nữa, cả nhà lại trực tiếp giết thịt chó tại nhà, tức trực tiếp sát sinh chứ không phải đi mua ngoài chợ. Mô Phật! Đặc biệt hơn cả là chủ nhà giết chính con chó thân yêu mà họ nuôi bấy lâu nay. Thật hết chỗ nói!




Căn ngăn không được. Khuyên nhủ không ăn thua. Chủ nhà và những người có mặt cùng nhau tìm cách chứng minh với tôi là ăn thịt chó rất bổ, có nhiều đạm.

Mà phải tự tay thịt chó để chắc chắn rằng thit được làm, tẩm ướp nguyên chất. Họ cũng cho biết, chỉ có chó tự nuôi mới đảm bảo chó sạch chứ không phải chó đánh bả thuốc độc. Cả bữa tôi không dám nhúng đũa. Đi bữa đó về mà tôi còn bâng khuâng mãi.


Ngày được mời đi giỗ mẹ người bạn lần này tôi định từ chối nhưng sau khi biết rằng không có sát sinh nên tôi đồng ý đi. Phần muốn động viên và tham gia cùng gia đình, phần muốn biết nơi đây tổ chức giỗ ra sao. Nơi tôi đến lần này là một vùng quê nơi cố đô Huế.

Ảnh minh họa

Trước ngày diễn ra lế giỗ, trong và sau ngày đó cả nhà cùng tụng kinh. Kinh gia đình tụng gồm Kinh cầu an, kinh cầu siêu, kinh Vu lan bồn, kinh Báo hiếu. Cả nhà cùng tụng kinh, niệm Phật, lễ Phật. Có một thành viên đi chuông, một thành viên đi mõ rất chuẩn mực như một đạo tràng trong chùa chẳng khác. Tất cả ai cũng thành kính.


Trong ba ngày tôi có mặt cả nhà đều ăn chay. Các món chay nấu khá giản dị và tự gia đình mua đồ về nấu. Tôi rất thích món đu đủ làm giòn gọi là dưa mắm nhưng thực ra ra là mắm chay. Các loại bánh khác như bánh bèo, bánh nậm, bánh lọc đều là chay. Lẩu nấm chay ăn khá ngon.

Tuy nhiên mấy món mà tôi thích nhất có lẽ là món gỏi ngó sen và mít trộn, mít xào, mít kho. Ăn mãi không chán. Ăn xong tôi còn xin mang về. Trong những món mang về còn có một món mà tôi bất ngờ: trái vả trộn. Toàn là đặc sản xứ Huế.


Gia đình gia chủ thờ gia tiên, ông bà ở phía sau. Phía trước thờ Phật Bà Quan Âm. Vậy là tất cả cùng ngồi trước bàn thờ Phật Bà để tụng kinh, niệm Phât và làm các nghi lễ. Người lớn và trẻ con, già và trẻ cùng đều tụng kinh.

Ảnh minh họa

Một điểm thú vi là trong ngày giỗ có một sư cô khá lớn tuổi đến tham dự. Nhưng sư cô này không tham gia các buổi tụng kinh. Hỏi ra mới biết đây là người bà con trong gia đình xuất gia. Tuy nhiên tự gia đình tụng kinh chứ không cần đến sư cô. Một người con trong nhà cho tôi biết, tâm người tụng mới quan trọng. Rằng nhớ đến cha mẹ, tự con cháu tụng kinh và hồi hướng công đức đâu có thua kém các nhà sư. Hơn nữa anh cho biết, bố mẹ khi biết con cháu tụng kinh cho mình sẽ vui hơn nhiều. Hay thật.


Bữa chiều ngày giỗ, các mâm cỗ chay được sắp lên. Người bác lớn tuổi thay mặt gia đình làm lễ dâng trà và khấn nguyện. Sau đó là các con cháu vào lễ và tạ ơn cha mẹ tổ tiên. Tôi quan sát thấy ai cũng rất thành tâm. Bụng bảo dạ, thế này thì Phật nào mà không chứng cho, cha mẹ nào mà không vui.


Một việc khác với quê tôi nữa là cả nhà ra nghĩa trang, đến mộ thắp hương và tụng kinh niệm chú tại đó. Lúc chúng tôi ra trời đã tối. Tôi thấy gia đình còn đốt một đống củi nữa. Thấy bảo để cho nơi đây ấm áp. Hương cũng được thắp cho các ngôi mộ xung quanh. Trên đường về anh con rể cả còn kể rằng ngày mẹ mất, cả nhà cũng đốt lửa ngay cạnh nơi chôn người mới qua đời. Buổi tối đó cả nhà còn ra mộ chơi, đốt củi cho mộ ấm áp, cho người mất không bị lạnh lẽo, cho người vừa qua đời không thấy cô đơn, buồn tủi, đến đêm mới về.


Điều tôi ấn tượng nhất là lòng thành kính cùng tung kinh niêm Phật của cả gia đình. Điểm tôi thích nhất ở đây là ăn chay. Nghe nói rằng trong 7 ngày hay 49 ngày thậm chí 100 ngày sau khi người mất cả nhà cùng cúng chay, ăn chay hồi hướng cho người mất. Thật tuyệt vời làm sao.


Tôi cũng không biết các vùng quê khác ở Huế có tổ chức ngày giỗ như nơi tôi đến hay không, bởi nếu khắp nơi đều làm như vậy thì thật là tuyệt vời.

Tôi ghi lại đây để mong các vùng khác trên đất nước Việt Nam chúng ta có thể biết, học theo và ứng dụng. Biết rằng làm được như ở đây, tại nhiều nơi không hề dễ.

Nhưng Việt Nam ta là đất nước Phật giáo và nếu cứ học nhau dần những cái hay như thế này thì chẳng mấy lâu nữa chúng ta sẽ có những dám giỗ, đám tang văn minh và công đức.


Sưu Tầm : phatgiao.org.vn  Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng

LẠY PHẬT HỘ PHÁP ỦNG HỘ

1.- Được sắc thân tốt đẹp.
​2.- Nói ra điều chi ai cũng tin dùng.
3.- Không sợ sệt giữa đông người.
4.- Được chư Phật giúp đỡ.
5.- Đầy đủ oai nghi lớn lao.
6.- Mọi người đều nương theo mình.
7.- Chư Thiên cung kính.
8.- Đủ phước đức lớn.
9.- Lúc lâm chung được vãng sanh.
10.- Mau chứng quả Niết Bàn.

Một khi chúng ta thành kính lạy Phật Bồ Tát rồi, thì tự nhiên chư Hộ Pháp cũng hộ ta. Vì sao vậy? Vì chư Hộ Pháp là đệ tử hộ pháp cho Phật. Mà ta thường kính lạy niệm Phật, là kính vị thầy “Sư phụ” của họ lý đương nhiên họ kính lại mình, mà đã kính mình nên khi có nạn tự nhiên họ liền giúp mình.

Cũng như đứa bé kia nó biết lễ kính cha mẹ mình thị tự nhiên mình cảm mến lại nó, nếu nó có bị hoạn nạn thì mình liền giúp nó lý cũng như vậy. Còn như ai phát tâm quy y Tam Bảo là đệ tử Phật, thì mình như em nhỏ sanh sau, còn Chư Hộ Pháp như anh lớn, nên anh thì có trách nhiệm bảo hộ cho em nhỏ , lý đây cũng như vậy. Cho nên người nào tín tâm thường lạy Phật thì được Phật nghĩ đến và Chư Hộ Pháp ủng hộ hiện đời.

Còn về kiếp sau quả báo còn lớn hơn nữa, vì sao? Vì Chư Phật Bồ Tát là những vị đã huân tập tích chứa tất cả công đức lành đã viên mãn. Nên chư Phật là biểu tượng chỗ thiện lành phúc đức tối thượng, mà người nào lạy Phật là tâm đã hướng đến chỗ công đức của Chư Phật nên tự tâm mình cảm thông công đức của Phật vào tâm mình và mình có chủng tử (hạt giống) công đức và tương lai các hạt giống đó phát triển như Phật và nhất định sẽ thành Phật. Có chỗ nói: Kính thầy thì mới làm thầy. Còn mình kính lễ Phật thì sẽ thành Phật ở kiếp mai sau. Lại kinh nói: người thường kính lạy Phật thì đời sau sinh làm người được quả báo thân tướng đoan trang, ai thấy cũng kính mình, như mình đã kính Phật. Cho nên công đức lạy Phật được xếp đứng đầu của 10 nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền đã dạy:

“ Nhất giả lễ Kính chư Phật”

Cho nên nếu mình nghèo không có tiền làm công đức, thì mình siêng năng lạy Phật thì vẫn có công đức lớn như trong kinh Phổ Môn đã dạy.

CÔNG HIỆU CỦA LẠY PHẬT TRÌ DANH CỦA MÔN KHÍ CÔNG TỊNH ĐỘ

Môn lễ lạy nhiều vị Phật xưa nay các chùa đều hành trì chúng ta vẫn cung kính tán dương tùy hỷ, nhưng con đường mình đi là lạy 1 vị Phật, có nhiều người bán tín bán nghi, lạy 1 Phật không đủ, phải lạy nhiều Phật, lúc lâm chung không ông Phật này cứu thì ông Phật kia rước.
Nếu 1 Phật bạn không cảm thì vạn Phật cũng không cảm, thì không Phật nào rước luôn, mà 1 Phật bạn đã cảm rồi thì tất cả Phật bạn đều cảm hết, cho nên lý Hoa Nghiêm mới nói 1 là tất cả, tất cả là 1, và công đức lạy 1 Phật bằng vạn Phật.

Hòa Thượng Tịnh Không nói nếu bạn lạy vạn Phật, bạn lạy Phật trước thì quên Phật sau, khó đi vào nhất tâm, vì vậy cho nên bạn lạy 1 Phật A Di Đà cảm được Phật thì trong ánh hào quang của Phật A Di Đà có vô số Phật, vô số bồ tát hiện ở trong, nương danh hiệu A Di Đà Phật để ngộ tánh nghe rất dễ, nên chư tổ nói, miệng niệm, tai nghe rõ ràng từng chữ từng câu không cho sót, cứ nghe hàng ngày liên tục đừng cho quên, thì cách nhép môi niệm A Di Đà Phật là không quên, niệm trong đầu bằng tư tưởng rất dễ quên và bị hôn trầm, buồn ngù.

Lạy Phật niệm Phật thành tâm được 10 công đức lễ Phật, theo kinh Pháp Hoa, mắt mình nhìn Phật niệm Phật được 800 công đức, miệng mình xưng danh hiệu Phật được 1200 công đức, tai mình nghe lại tiếng niệm của mình được 1200 công đức, thân mình chắp tay trang nghiêm được 800 công đức, mũi ngửi những mùi nhang thanh tịnh không đắm nhiễm hương trần bên ngoài được 800 công đức, ý mình lắng nghe không trụ nơi đâu được 1200 công đức, khi trụ vào nơi nào nó dính mắc nơi đó nên khó nhập thể tánh, mà lắng nghe ý mình theo dõi từng chữ từng câu niệm Phật rõ ràng được 1200 công đức, mắt nhìn bị giới hạn cách vách cho nên nó được 800 công đức, tai nghe qua khỏi vách nên được 1200 công đức, thân mình giới hạn hơn nên được 800 công đức, nếu bạn ngồi nhắm mắt nó mất 800 công đức, thân không trang nghiêm lễ Phật mất 800 công đức, cách lễ Phật nghe lại âm thanh do miệng phát ra là cách tu của Quan Thế Âm Bồ Tát, nên nghe lại âm thanh câu A Di Đà Phật gọi là Diệu âm, diệu Y báo, diệu chánh báo, đó là lời giảng của Hòa Thượng Tịnh Không. (Trích bài giảng của Thầy Thích Giác Nhàn)

Ngoài ra Lạy Phật diệt tội hà sa, ngoài công năng sám hối, nó còn có công dụng về y học để khí huyết trong người lưu chuyển. lạy ít nhất 300 lạy mỗi ngày làm khí huyết lưu thông đi khắp đầu cổ gáy vai lưng bụng cột sống đầu gối khớp tay chân, ép bắp chân, ép các cơ quan bao tử, gan, ruột, thận… giúp đưa máu đến nuôi dưỡng các tế bào tim, phổi, gan, bao tử, ruột, thận, xương cốt, da thịt, đều được thay đổi oxy theo nhịp thở, nhịp cúi lạy, có công năng phục hồi tế bào bệnh, tế bào thoái hóa, tế bào lão hóa, và làm trẻ hóa tế bào.

Do đó chúng ta không lấy làm lạ những người thực hành phương pháp Lạy Phật Trì Danh, như Hoà Thượng Tịnh Không nên ngài 86 tuổi mà da mặt hồng hào, trẻ lại, sức khỏe bằng tuổi thanh niên, cách 3 năm trước Thầy Thích Giác Nhàn mặt ốm, đen, sau 5 năm Lạy Phật trì Danh 1000 lạy mỗi ngày, da mặt đổi khác, tướng hảo quang minh, hồng hào. Nữ Pháp Sư Đạo Chứng là 1 nữ bác sĩ bị ung thư, quyết theo pháp môn niêm Phật Trì Danh để tự chữa bệnh mà được khỏi bệnh, đã rút kinh nghiệm viết thành sách “ Lạy Phật và Y Học” phổ biến cho mọi người biết công năng của pháp môn lễ lạy Phật như một môn thể dục khí công và Trì Danh là môn luyện hơi thở làm tăng cường nội lực, thu nhận được nhiều oxy để chuyển hóa tế báo, phục hồi tế bào bệnh, trẻ hóa tế bào lành vừa giúp cho bệnh nhân khỏi bệnh, vừa giúp thân tâm an lạc thân tâm không còn bệnh và sám hối bằng cách Lạy Phật Trì Danh thì nghiệp bệnh tiêu trừ.

Ngoài ra nhờ Lạy Phật Trì Danh mỗi ngày từ 300-1000 lạy trang nghiêm cung kính cảm ứng với Phật, lúc không lạy Phật thì nhép miệng niệm Phật gọi là Phản Văn Trì Danh, miệng niệm tai nghe, cũng là cách luyện hơi thở làm tăng nội lực, như vậy là đã thực hành đúng như lời khai thị của Đại Sư Ấn Quang, nhiếp tâm niệm Phật từ sáng đến tối từ tối đến sáng không rời câu niệm Phật, không bị gián đoạn, không bị xen tạp thì câu niệm Phật A Di Đà hoà với Phật Quang, Phật quang hòa với câu niệm Phật, tâm mình tương ưng với tâm Phật, đúng với Pháp Môn Tịnh Độ, các bạn thực hành chỉ 1 phương pháp Lạy Phật Trì Danh và Phản Văn Trì Danh này là đã có đủ Tín-Hạnh-Nguyện, cách này giúp niệm Phật không xen tạp, không vọng tưởng, không hôn trầm, mệt mỏi, thân không bệnh tật, lìa mọi đớn đau.

Hoà Thượng Tịnh Không nói nếu lạy Phật thường xuyên sắc thân tốt đẹp không bị thời gian không gian phá hư hoại sâc thân khi chết gọi là “tử ma chân kim”, thì lo gì không được an vui tự tại vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.

Sưu Tầm :Thầy Huệ Tâm Hải
Trung Tâm Trường Sinh

Phóng sinh tội hay phước


Phóng sinh trong lễ Vu Lan là đúng hay sai?



Những con chim nhốn nháo, đạp lên nhau chờ được phóng sinh
Đánh thuốc, cắt cánh chim để sau khi phóng sinh chim chỉ bay được một đoạn ngắn lại tiếp tục vô lồng. Giăng lưới, chặn bắt sẵn tại nguồn nước cá mới vừa được thả ra để bán lại cho người khác. Cứ như thế, những con vật tuy nói là được phóng sinh nhưng lại bị hành hạ cho đến chết.


Có thể bạn quan tâm

Phóng sinh hay sát sinh

Lễ Xá tội vong nhân – còn được gọi là Vu Lan đang đến rất gần. Trong những ngày này, Phật tử nô nức đến chùa cầu an, ăn chay, phóng sinh, … để cầu phúc cho cha mẹ, gia đình. Ăn chay, phóng sinh là những cách nuôi dưỡng lòng từ bi của đạo Phật, nhưng trên thực tế, nhu cầu phóng sinh lại tiếp tay cho nhiều người trở thành kẻ sát sinh.
Tại chùa Vĩnh Nghiêm, Quận 3, một trong những ngôi chùa tôn nghiêm bậc nhất TP.HCM lại xảy ra những cảnh tượng khiến bất cứ ai cũng phải đau lòng. Trước cổng chùa, không ít người đang bán chim, cá để phóng sinh. Hàng trăm con chim sẻ nhỏ bị nhốt trong chiếc lồng chật hẹp, chúng đờ đẫn gọi nhau yếu ớt đến đáng thương.


Để phục vụ nhu cầu phóng sinh, các quầy nhang đèn cũng kê thêm lồng chim cá để bán

Tại một điểm bán chim phóng sinh, chúng tôi quan sát thấy người bán đang kín đáo bắt những con chim đã chết cho vào bọc ny lông màu đen rồi đem vứt sọt rác. Trong sân chùa, nhiều người mang những lồng chim phóng sinh vào khấn vái rồi mở cửa lồng cho chim bay. Thế nhưng chỉ đập cánh được vài cái, đám chim tội nghiệp lại sà xuống sân chùa. Có con yếu đến mức không kịp phản ứng, bị người đến viếng chùa vô tình đạp chết.



Chim thả ra không bay nổi mà nằm tại sân chùa

Cảnh tượng giam cầm, chết chóc của những sinh vật nhỏ bé cứ nhan nhản trước cổng chùa quả khiến người ta không khỏi xót xa.

Theo quan sát, những người bán chim phóng sinh, không ngần ngại cắt bớt lông cánh của chim, để chúng không bay được xa rồi bắt về bán tiếp. Hay đơn giản hơn là chỉ cần đánh thuốc vào thức ăn của chim, khiến chúng lờ đờ, không còn nhanh nhạy để dễ dàng bắt lại.

Tại chùa Ngọc Hoàng, quận 1, TP.HCM chúng tôi cũng bắt gặp những cảnh tượng tương tự. Ban quản lý chùa Ngọc Hoàng cho biết, họ không hề khuyến khích việc phóng sinh. Tuy nhiên, khách thập phương cứ tự ý mang cá, ba ba rồi phóng sinh vào hồ nước tại chùa. Việc làm này gây ô nhiễm nguồn nước, dẫn đến hoàn cảnh rất trớ trêu là, cá tuy được phóng sinh nhưng lại chết hàng loạt, phơi bụng trắng hếu trong hồ…

Vào những mùa lễ lớn như rằm tháng Giêng, Phật Đản, Vu Lan, … nhu cầu phóng sinh lại tăng thêm, khiến chim cá – những con vật vô hại lại bị hành hạ, sát hại nhiều hơn. Tuy chẳng pháp luật nào cấm chuyện bán chim cá phóng sinh, nhưng xét về giáo lý đạo Phật thì đây không những là tội của những người buôn bán, mà còn là tội của người có nhu cầu phóng sinh nhưng không thấu đáo lý lẽ nhà Phật.

Phóng sinh thế nào cho đúng

Khảo sát ý kiến các bạn trẻ, hầu hết đều cho rằng việc phóng sinh theo kiểu mua “chim cá phóng sinh” bán sẵn là hoàn toàn trái với tự nhiên.
Em Hà Thị Vân, sinh viên trường đại học Sài Gòn, quận 5 cho biết: “Em cũng là một Phật tử, thấy cảnh tượng chim, cá mỗi khi vào mùa lễ lớn lại càng chết nhiều thực sự rất đau xót. Cá đang bơi ngoài sông suối, chim đang tự do, người ta bắt về rồi đem thả rất trái với tự nhiên. Nếu mình mua, khác nào khuyến khích họ bắt chim, bắt cá ngày càng nhiều”.


Cá được phóng sinh lại phơi bụng trắng hếu tại một ngôi chùa ở quận 1

Anh Nguyễn Xuân Thanh, người đang vía Phật tại chùa Vĩnh Nghiêm chia sẻ: “Tôi cũng phản đối việc phóng sinh sai lầm như thế này. Giáo lý đạo Phật dạy rằng, phóng sinh tức là người có thiện tâm nhìn thấy chúng sinh bị bắt nhốt, giam cầm, sắp sửa bị giết hại thì phát lòng từ bi tìm cách cứu mạng sống của chúng sinh. Nhưng người mua đâu có biết là nhu cầu phóng sinh cho có lệ lại tiếp tay cho kẻ ác hành hạ con vật. Nếu thật sự thiện tâm phóng sinh, hãy ra chợ mua những con vật còn sống sắp bị ăn thịt mà đem thả đi”.



Theo Thượng tọa Thích Chơn Không, cách phóng sinh gián tiếp tốt nhất là tránh sát sinh và nên ăn chay.

Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi đã tham khảo ý kiến của Thượng tọa Thích Chơn Không – trụ trì chùa Thiên Tôn, quận 5, TP.HCM. Chùa Thiên Tôn là một trong những ngôi chùa không khuyến khích phóng sinh. Trụ trì Thích Chơn Không cho biết: “Không phải thầy không khuyến khích phóng sinh, phóng sinh tốt chứ, nhưng phóng sinh trong hoàn cảnh bán buôn con vật để phóng sinh tràn lan ở Việt Nam thì không nên. Tuy không trực tiếp nhưng phóng sinh sai cách đã khiến Phật tử gián tiếp mang lại cái chết cho chúng sinh”.
Trụ trì Thích Chơn Không giảng giải: “Chim bay trên trời, cá bơi dưới nước vốn dĩ chẳng cần ai phải phóng sinh. Việc làm hại những con vật nhỏ bé từ nhu cầu phóng sinh sai cách này quá rõ ràng. Nhưng nhiều người lại không nhận thức được, đến lúc làm lễ lại nghĩ bỏ tiền ra mua là xong. Phóng sinh mà lại tiếp tay cho kẻ sát sinh, thực tế cũng là có tội”.


Thượng tọa Thích Chơn Không

Theo hòa thượng Thích Chơn Không, cách “phóng sinh” hiệu quả nhất trong hoàn cảnh hiện nay là không sát sinh và ăn chay. Hòa thượng Thích Chơn Không nói: “Đây là cách phóng sinh gián tiếp nhưng hiệu quả. Tự thân chúng ta không giết hại sinh vật, khuyến khích mọi người không sát sinh, không hành hạ con vật. Phát tâm ăn chay, người có tiền thì tài trợ cho các nhóm từ thiện nấu cơm chay giúp đỡ bệnh nhân nghèo, công nhân nghèo… để họ có thêm điều kiện ăn chay. Người không có điều kiện vật chất thì góp công giúp đỡ, tự mình ăn chay, tu dưỡng. Vì ăn chay tức gián tiếp phóng sinh, không tạo điều kiện cho người khác bắt giết sinh vật, làm như thế chắc chắn có phước một cách thanh tịnh và hoàn hảo”.
Nguồn Một Thế Giới ,vn

Lòng tham không đáy



LÒNG THAM CỦA CON NGƯỜI

Một vị thiền sư đi ngao du thiên hạ, khi đến một vùng núi nọ thì bị ốm nặng. Ông được một bà goá là chủ quán trà cứu và đưa về nhà chăm sóc. Mặc dù không biết tung tích vị thiền sư, quán nghèo thưa thớt khách, không có tiền nhưng người phụ nữ vẫn tận tình chăm sóc và cứu chữa cho ông.

Hơn 3 tháng ròng vị thiền sư mới bình phục. Cảm động ân tình của bà chủ quán, vị thiền sư trước khi rời đi dành một tuần liền để đào một cái giếng cạnh quán cho bà goá tiện dùng nước, không phải ra tận suối gánh nữa. Không ngờ, từ khi dùng nước giếng mà vị thiền sư đã đào để pha trà bán, trà của bà goá có mùi thơm thật đặc biệt và vị của trà cũng rất ngon. Ai uống một lần cũng phải quay lại. Tiếng lành đồn xa quán trà của bà goá khách đến đông nườm nượp. Người đàn bà goá trở nên giàu có từ đó.


Ít lâu sau, vị thiền sư có dịp ghé qua quán để thăm lại ân nhân của mình, thấy cơ ngơi khang trang, vị thiền sư rất mừng cho bà goá. Khi hỏi về giếng nước, bà goá than phiền với thiền sư: “Giếng nước này tốt lắm, có điều nước cạn liên tục, vài ngày mới lại đầy nên tôi chẳng bao giờ đủ để bán cho khách”. Vị thiền sư nghe xong lắc đầu, nói: “Không tốn kém gì cả, từ nguồn nước trời cho rồi kiếm ra nhiều tiền mà bà vẫn không thấy hài lòng ư?”

Ông viết lên tường một câu: “Trời đất bao la nhưng lòng tham của con người còn mênh mông hơn thế!” rồi lẳng lặng quay đi, không bao giờ quay trở lại quán nữa. Giếng nước từ ấy cũng cạn dần.

Chúng ta phần lớn giống như bà goá kia, không bao giờ hài lòng với cái mình có mà thường đứng núi này trông núi nọ. Chúng ta thường hay so sánh, hay mong ước viển vông mà quên vui hưởng hiện tại của mình. Hãy nhìn lại để thấy mình đã được may mắn hơn bao nhiêu người chẳng có gì, để biết vui sống, để bớt “lòng tham”, để không phải hối hận về sau!

Trong giáo lý nhà phật đã sớm khai thị cho con người chúng ta nên sống phải biết "Thiểu dục tri túc" - Nghĩa là muốn sống hạnh phúc thì nên ít ham muốn và biết đủ. Nếu ta cứ đeo đuổi những gì ta chưa có nghĩa là để cho lòng tham trỗi dậy, đứng nơi này mà luôn không yên và cứ nhòm ngó nơi kia. Cứ như vậy ta như đang đuổi hình bắt bóng, liệu đó có phải là hạnh phúc hay chưa? Hạnh phúc, buồn vui...tất cả chỉ là do ta cảm nhận mà thôi.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Sưu Tầm

tai sao . quyen kinh hay nhu vay ma khong co chua nao tung la sao

                             Càng đi chùa thấy càng sân si là sao ? Niệm Phật đó Tụng kinh vừa mới ai động đến mình sân si nổi lên liền là sao? có ai cùng nghĩ với mình không
    
Cuốn kinh đúng cho mọi người mọi tầng lớp .Mà tại sao mọi người không cùng nhau phát tán ?  Truyền tụng . Thật là buồn cười đâu có ông Phật nào mà ngồi chờ mình niệm Phật để vãng sanh
thời buổi bây giờ ngồi tụng kinh dược sư cho hết bệnh ? Mình có nghe câu nói thường xuyên ở trong đạo tràng Càng đi chùa tụng kinh càng nhiều bản ngã càng cao .Quý vị để ý đi vô trong chùa mà thấy sư thầy hay Phật tử nào mà làm công quả hay tụng kinh nhiều là thấy mặt họ sao sao đó giống như cái bánh đa .Thử để ý nhe
ngày ngày tụng quyển kinh này dạy ta mọi cách sống ,cách cư xử Cuốn sách đắt nhân Tâm là phiên bản của cuốn kinh này .Mong mọi người tìm đọc và share cho nhau
                              
Quí vị có thể tìm đọc những cuốn kinh này
-        Kinh Phật cho người tại gia
-        Kinh tụng hàng ngày
-        Nghi thức tụng niệm
-        Kinh Phật cho người mới bắt đầu
-        423 lời vàng của Phật
-        Nghi thức trì Chú Đại Bi, Chú Dược Sư và Niệm Phật A Di Đà
-        Các loại đĩa, pháp thoại do TT. Thích Nhật Từ giảng
-        Đại tạng kinh Việt Nam (âm thanh mp3)
-        Sách nói Phật giáo trên 80 đầu sách
-        Âm nhạc Phật giáo


                                       Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

đọc ai cũng đọc được hiểu có thể ít hơn nhưng đời này chưa thấy ai làm được ?


TỨ DIỆU ĐẾ :Là một phương diện giải quyết vấn đề cho nhiều tình huống nghịch cảnh khác nhau. Công thức của Tứ diệu đế là hai lớp nhân quả:Thứ nhất, thừa nhận bế tắc, khổ đau có mặt với mình là một hiện thực. Do vậy người tu học theo Phật giáo không chán nản, trốn chạy cuộc đời và nghịch cảnh mà phải trực diện với chúng thật bản lĩnh không sợ sệt để ta xem gốc rễ của nó nằm ở đâu. Từ thái độ phân tích này, ta mới truy ra nguyên nhân xa và gần, khách quan và chủ quan, mình và người, hoặc bao gồm tổng hợp những thứ vừa nêu. Trong kinh tế học và lĩnh vực ngành nghề khoa học, hầu như không có phương pháp nào vượt khỏi cấu trúc thừa nhận sự bế tắc, để tìm ra nguyên nhân.Thứ hai, đối đầu lớp nhân quả trước tiên là an vui hạnh phúc, đỉnh cao nhất là Niết bàn, không bị trở về trạng thái của khổ đau thêm lần nữa, cũng không có được từ cầu nguyện, van xin hay phép mầu. Nó có được bằng con đường thực tập Bát chánh đạo, bắt đầu bằng Chánh tư duy và kết thúc bằng Chánh trí tuệ. Như vậy, ta thấy rõ con đường thực tập trong Phật giáo chính là tiến trình nhân quả.Ðúc kết lại lời Phật dạy trong kinh, Ngài khẳng định, xưa cũng như nay; từ lúc Ngài thành đạo dưới cội bồ đề cho đến trước lúc nhập Niết bàn, trong suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp, Ngài chỉ đưa ra hai vấn đề là vạch mặt khổ đau và chỉ rõ con đường để vượt qua khổ đau. Như vậy, tu học mà không dựa trên giải quyết vấn đề bằng Tứ diệu đế, thì ta sẽ đi ngoài quỹ đạo của chánh pháp.Tứ diệu đế còn có nghĩa là Tứ thánh đế. Sở dĩ có chữ Thánh là vì bất kỳ hành giả nào, tại gia hay xuất gia, thực tập đúng con đường Bát chánh đạo, thì sau thời gian thực tập, tính cách phàm phu sẽ giảm thiểu một cách đáng kể, thay vào đó là tính cách của Thánh nhơn. Nếu tu tập một cách rốt ráo, thì người phàm sẽ không còn là phàm nữa mà sẽ trở thành Thánh nhơn với quả chứng Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả A la hán, Bồ tát và Phật. Vấn đề là thời gian và phương pháp luận cũng như sự nỗ lực, dụng công như thế nào.

THÍCH NHẬT TỪ

Hạnh Phúc Của Bạn Nơi Nào ?

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN

Có một nhóm 50 người đang tham dự một seminar, đột nhiên diễn giả ngừng lại và đề nghị nhóm tham gia một hoạt động, ông ta đưa cho mỗi người một quả bóng bay và yêu cầu từng người viết tên của mình lên quả bóng bay. http://goo.gl/GI9vZA
Sau đó, những quả bóng bay được đưa tới một căn phòng khác. Những người tham dự bước vào căn phòng có những quả bóng và phải tìm ra quả bóng có tên của họ trong vòng 5 phút. Mọi người đều cố gắng tìm quả bóng có tên của mình, xô đẩy những người khác và đẩy các quả bóng khác sang một bên. Khung cảnh rất hỗn độn.
Sau 5 phút không ai tìm được quả bóng có tên của họ. Nhóm người đó lại được yêu cầu làm một nhiệm vụ khác, nhặt lên bất kỳ một quả bóng và đưa cho người có tên trên quả bóng đó. Trong vòng một phút, tất cả mọi người đều có quả bóng viết tên của chính họ.
Diễn giả bắt đầu nói :
- Đây chính là những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Ai ai cũng điên cuồng lùng sục hạnh phúc ở khắp mọi nơi mà không biết nó nằm ở đâu. Hạnh phúc của mỗi chúng ta chỉ có được dựa trên hạnh phúc của người khác. Hãy cho đi niềm hạnh phúc, và bạn sẽ nhận lại phần của mình.


(St) Vườn Thiền

"Tâm rộng mở làm tròn câu nhân nghĩa
Bước chân yên trên dòng chảy thời gian
Đến hay đi cuộc sống vẫn bình an
Không đứng lại trên đường tìm hạnh phúc."

Tìm hạnh phúc là một quá trình, nhưng không phải là quá trình của một người. Trên hành trình ấy mỗi người đều có trách nhiệm như nhau. Không thể nào có được hạnh phúc trên khổ đau của người khác. Tất cả đều do con người, và cũng chỉ có con người mới chế tác ra hạnh phúc hay đau thương.

Khi ngẫm sâu cuộc sống này là một vòng tròn khép kín, nhân quả tuần hoàn, đến đi theo cách mà con người đã tạo.

Cho đi thật dễ hơn là nhận về. Dù một đóa hoa nở xong sẽ tàn, nhưng khoảnh khắc tuyệt đẹp ấy sẽ vĩnh hằng cùng thời gian lưu chuyển. Con người cũng vậy, một nụ cười hạnh phúc cũng là một món quà quý giá để tặng nhau. Dù đi qua trong cuộc đời này rất ngắn, nhưng nếu có lòng, hạnh phúc vẫn có mặt trên từng bước chân đi.

Chúc chư hiền luôn an vui tinh tấn. Adidaphat !

thích minh Khương

Làm Bồ Tát


Có một kẻ lang thang, đi vào chùa, thấy Bồ Tát ngồi trên Đài Sen nhận cúng bái của mọi người, anh ta vô cùng ngưỡng mộ.
Kẻ lang thang nói: “Tôi có thể đổi chỗ ngồi với Người một lát không?”
Bồ Tát trả lời: “Chỉ cần anh không mở miệng.”
Kẻ lang thang ngồi lên Đài Sen. Trước mắt của anh là cả ngày hỗn loạn ầm ĩ, người đến phần lớn là cầu điều này điều kia. Anh vẫn cố gắng chịu đựng trước sau không mở miệng. Một ngày, một phú ông đến. Phú ông: “Cầu Bồ Tát ban cho con một đức tính tốt.” Nói xong ông dập đầu, đứng dậy, ví tiền lại bị rớt xuống mặt đất. Kẻ lang thang vừa muốn mở miệng nhắc nhở, nhưng kịp nhớ đến điều kiện của Bồ Tát.
Sau khi phú ông đi ra, thì có một người nghèo bước vào. Người nghèo nói: “Cầu Bồ Tát ban cho con ít tiền. Người nhà con lâm bệnh nặng, đang rất cần tiền ạ.” Cầu xong ông dập đầu, đứng dậy, nhìn thấy một túi tiền rơi trên mặt đất. Người nghèo thốt lên: “Bồ Tát quả thật hiển linh rồi.” Ông cầm túi tiền ra đi. Kẻ lang thang muốn mở miệng nói không phải hiển linh, đó là đồ người ta đánh rơi, nhưng anh lại nhớ đến điều kiện của Bồ Tát.
Lúc này, một người ngư dân đi vào. Ngư dân cầu xin: “Cầu Bồ Tát ban cho con bình an, ra biển không gặp sóng gió.” Đoạn dập đầu, đứng dậy, ông vừa muốn đi, lại bị phú ông túm chặt. Vì túi tiền, hai người đánh nhau túi bụi. Phú ông cho rằng người ngư dân đã lấy túi tiền, mà ngư dân thì cảm thấy bị oan uổng không cách nào chịu đựng nổi. Kẻ lang thang không thể nhịn được nữa, anh ta liền hô to: “Dừng tay!” Rồi đem chân tướng nói ra cho họ. Tranh chấp nhờ đó mà đã yên.
Lúc này Bồ Tát mới nói: “Ngươi cảm thấy làm vậy là đúng chăng? Ngươi hãy tiếp tục đi làm kẻ lang thang đi! Ngươi mở miệng tự cho mình rất công bằng, nhưng, người nghèo vì vậy mà không có tiền cứu chữa người thân; người giàu không có cơ hội tu đức hạnh; người ngư dân ra biển gặp sóng gió chôn thân dưới đáy biển. Nếu ngươi không mở miệng, mạng sống người nhà kẻ nghèo kia được cứu; người giàu tốn chút tiền nhưng giúp người khác mà tích được đức; ngư dân cũng vì dây dưa không cách nào lên thuyền, tránh được mưa gió, có thể còn sống sót.”
Kẻ lang thang im lặng ra khỏi chùa…
Rất nhiều sự tình, nó thế nào, chính là như thế đó. Để nó tiến triển theo tự nhiên, kết quả sẽ tốt hơn. Khi đối mặt với sự việc, ai có thể biết rõ kết quả gì sẽ xảy ra chứ?
Yên lặng theo dõi diễn biến, chính là một loại năng lực!
Thuận theo tự nhiên, là một loại hạnh phúc!

(St) Ngọc Lan Nguyễn FB

Muốn làm Bồ Tát cũng không phải dễ phải không chư hiền ? Câu chuyện này có nhiều cách luận giải khác nhau, muốn đúng thì nó sẽ đúng, muốn sai thì nó sẽ sai. Nhưng đúng hay sai không phải là điểm quan trọng. Điểm nhấn là tính chất TÙY THUẬN TỰ NHIÊN. Cái sai lại là đúng. Đúng quá lại thành sai. Đây là lời giải thích cho câu nói của Phật: "Oan ức không cần bày tỏ, vì bày tỏ là hèn nhát, mà trả thù thì oán đối kéo dài." (Một trong mười điều tâm niệm trong luận Bảo Vương Tam Muội). Xét ra chữ tình và lý phải đi đôi. Thuận tình hợp lí mới là nhân đạo. Trong cuộc đời mình không biết bao nhiêu lần mình tìm chữ lý, nhưng đều không thể vẹn toàn, vì còn phải xét theo chữ tình nữa. Ý niệm giác ngộ này mời chư hiền suy ngẫm thêm...

bức tranh bị bôi bẩn


Có một điều chân thật. Mỗi cuộc đời là một giấc mơ. Mỗi giấc mơ là một hành trình. Có giấc mơ làm giàu. Có giấc mơ tình yêu. Có giấc mơ làm thầy. Có giấc mơ làm Phật... Và tất cả giấc mơ đều có một giá trị cao quý. Có một thanh niên cũng đã đi tìm giấc mơ của mình: http://goo.gl/XJgYh1

Có một anh chàng họa sĩ từ lâu ôm ấp ước mơ để lại cho hậu thế một tuyệt tác. Và rồi một ngày kia chàng bắt tay vào việc. Ðể tránh sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống thường nhật, chàng dựng một khung vẽ rộng 30 mét vuông trên sân thượng một tòa nhà cao tầng lộng gió. Người họa sĩ làm việc miệt mài suốt nửa năm. Chàng say mê bức họa tới mức quên ăn quên ngủ. Khi bức tranh hoàn thành, nó sẽ đưa tên tuổi của chàng sống mãi với thời gian.

Một buổi sáng nọ, như thường lệ, chàng họa sĩ tiếp tục hoàn chỉnh những nét cọ trước sự trầm trồ của hàng chục du khách tham quan. Tuy nhiên sự có mặt của đám đông không hề ảnh hưởng tới họa sĩ. Chìm đắm trong cơn say mê điên dại, chàng ngây người nhìn ngắm thành quả lao động sáng tạo của mình. Cứ thế, chàng từ từ lùi ra xa để chiêm ngưỡng bức tranh mà không biết rằng mình đang tiến tới mép sân thượng. Trong số hàng chục người khách tham quan đang bị bức tranh hút hồn, chỉ có vài người phát hiện ra mối nguy hiểm đang chờ đón người họa sĩ: chỉ lùi một bước nữa là chàng sẽ rơi tõm xuống khoảng trống mênh mông cao cả trăm mét. Tuy nhiên, không ai có can đảm lên tiếng vì biết rằng một lời cảnh báo có thể sẽ khiến người họa sĩ giật mình ngã xuống vực thẳm.

Một sự im lặng khủng khiếp ngự trị trong không gian. Bất chợt một người đàn ông tiến tới giá vẽ. Ông ta chộp lấy một cây cọ nhúng nó vào hộp màu và bôi nguệch ngoạc lên bức tranh. Một sự hoàn mỹ tuyệt vời đã bị phá hủy. Người họa sĩ nổi giận, anh ta gầm lên đùng đùng lao tới bức vẽ, giật cây cọ từ tay người đàn ông nọ. Chưa hả giận, người họa sĩ vung tay định đập cho người đàn ông nọ một trận. Tuy nhiên, hàng chục người xung quanh cũng đã kịp lao tới, giữ lấy người họa sĩ và giải thích cho anh ta hiểu tình thế. Rồi một vị cao niên tóc bạc phơ đến bên chàng họa sĩ và nhẹ nhàng nói: “Trong cuộc đời, chúng ta thường mải mê phác ra những bức tranh về tương lai. Tuy rằng bức tranh đó có thể rất đẹp, rất quyến rũ nhưng chính sự quyến rũ, mê hoặc về những điều sắp tới đó thường khiến chúng ta không để ý tới những mối hiểm họa gần kề, thậm chí là ngay dưới chân mình”.

Vậy nên, nếu như có ai đó bôi bẩn, làm hỏng bức tranh về tương lai mà ta dày công tô vẽ, xin bạn chớ nóng vội mà oán giận. Trước tiên hãy xem lại hoàn cảnh thực tại của chính mình. Biết đâu một vực thẳm đang há miệng chờ đón ngay dưới chân bạn.

(St) Bức tranh bị bôi bẩn

" Vẽ trời vẽ đất vẽ sông
Vẽ mây vẽ nước vẽ người vẽ ta
Vẽ ra khắp cõi ta bà
Vẽ thành tịnh độ
chẳng qua
tâm mình."

Câu chuyện trên đâu đó cũng có hình ảnh của mình. Để có danh gì với núi sông. Chúng ta đã ôm niềm cảm hứng ấy lên đường tìm đạo, tự vẽ ra một bức tranh tuyệt mỹ cho mình, rồi say đắm chính tác phẩm của mình. Chúng ta bị những lời tung hô khen tặng che mắt, rồi tiếp tục cuốn trôi vào vòng lẫn quẫn không hay, chúng ta vô tình bôi bẩn lên bức tranh cuộc sống tươi đẹp này.
Trong bài nói chuyện Đạo Phật với tuổi trẻ, thầy Tuệ Sỹ đã mở ra một tầm nhìn sâu rộng rằng:

" Tuổi trẻ thường được nhắc nhở, khuyên bảo rằng cần phải học hỏi để sống cho đáng sống. Ca dao cũng nói rằng "làm trai cho đáng nên trai, xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên", và các bạn trẻ hiểu rằng, ta sẽ phải làm nên sự nghiệp hiển hách nào đó kẻo không thì sẽ uổng phí cuộc đời. Rồi bạn ấy làm nên sự nghiệp lớn thật, và người đời thán phục. Chúng ta cũng hết sức thán phục. Nhưng hãy nhìn sâu vào đôi mắt của bạn ấy một chút, nếu có ai trong chúng ta đây có vinh dự được nhìn. Chúng ta thấy gì? Những phương trời cao rộng, để cho "cánh hồng bay bỗng tuyệt vời", hay một phương trời tiếc nuối, "khi ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, thà khuyên chàng đừng chịu tước phong"? Cả hai. Người đuổi bắt ảo ảnh để tìm ảnh thực vĩnh cửu của chính mình. Vị ngọt của đời ở đâu, trong cả hai?

Bây giờ chúng ta hãy tạm rời bức tranh lãng mạn ấy, để nhìn sang một hướng khác. Có hình ảnh nào đáng chiêm ngưỡng hơn hay không? Cũng còn tùy theo điểm đứng nghệ thuật của người nhìn.

Thuở xưa, có một vương tử, mà ngai vàng đã dọn sẵn, vó ngựa chinh phục cũng đã sẵn sàng yên cương. Rồi một đêm, khi cả cung đình đang ngủ say trong giấc ngủ êm đềm của uy quyền, danh vọng, giàu sang; vương tử gọi quân hầu thắng cho ngài con tuấn mã trường chinh. Nhưng vó ngựa trường chinh của ngài không tung hoành chiến trận. Thanh gươm chinh phục của ngài không đánh gục những chiến sĩ yếu hèn. Gót chân vương giả từ đó lang thang khắp chốn sơn cùng thùy tận: cô đơn bên bờ suối, dưới gốc cây. Ngài đi tìm cái gì? Ta hãy nghe Ngài nói: "Rồi thì, này các Tỳ kheo, một thời gian sau, trong tuổi thanh xuân, khi tóc còn đen mượt, với sức sống cường tráng; mặc dù cha mẹ không đồng ý với gương mặt đầm đìa nước mắt, Ta đã cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta trong khi ra đi như vậy, làm người đi tìm cái gì đó chí thiện, tìm con đường hướng thượng, tìm dấu vết của sự tịch mịch tối thượng". Ngài đi tìm và khai phát con đường dẫn về thế giới bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.

Rồi con đường ấy được công bố, được giới thiệu cho những ai như những đóa sen tuy sinh trưởng từ bùn sình, nước đọng, đang đã có thể vươn lên khỏi bùn sình, bản thân không bị nhiễm mùi tanh hôi của bùn sình. Tuy vậy, không phải ngay từ đầu con đường vừa được khám phá và công bố ấy được tiếp nhận một cách đầy tin tưởng bởi tất cả mọi người. Số người chống đối không phải ít.

Khi đức Ðạo sư trẻ tuổi đến Magadha, vương quốc hùng mạnh nhất thời bấy giờ, nhiều thanh niên con nhà gia thế, như Yasa cùng các bạn bè, và các thanh niên trí thức hàng đầu như Sariputta và Moggallana, và nhiều thanh niên quý tộc, vương tôn công tử, tiếp nối nhau từ bỏ gia đình, từ bỏ địa vị xã hội sang cả, chọn con đường vinh quang của Chân lý. Từ một góc độ nào đó mà nhìn, sự ra đi của họ tạo thành một khoảng trống lớn cho xã hội, làm đảo lộn nếp sống đã thành thói quen của quần chúng. Dân chúng lo ngại. Họ thì thầm bàn tán, rồi phiền muộn, rồi thất vọng, và rồi giận dữ. Dư luận gần như dấy lên đợt sóng phải đối: "Sa-môn Gotama làm cho những người cha mất con, những bà vợ trẻ trở thành góa bụa. Sa-môn Gotama làm cho các gia đình có nguy cơ sụp đổ". Dư luận phản đối ấy không kéo dài đủ để gây thành làn sóng phản đối. Chẳng mấy chốc, những người cha, những bà vợ trẻ ấy nhận thấy không phải họ bị phản bội hay bị bỏ rơi cho số phận cô đơn, mà họ được chỉ cho thấy hương vị tuyệt vời của tình yêu và hạnh phúc mà trong một thời gian dài họ không tìm thấy.

Như thế, trong những ngày đầu tiên khi vừa được công bố, con đường chí thiện, con đường tối thắng và tối thượng của thế gian, dẫn đến thế giới bình an vĩnh cửu không phải bằng sức mạnh chinh phục của gươm giáo, mà bằng sức mạnh của từ bi và trí tuệ; con đường ấy được nồng nhiệt tiếp nhận bởi những con người rất trẻ, bởi tầng lớp ưu tú nhất của xã hội; tầng lớp định hướng tương lai của xã hội.

Rồi ba thế kỷ sau, một bạo chúa với đạo quân hùng mạnh bách chiến bách thắng, sau một trận tàn sát khốc liệt, chống gươm đứng nhìn hàng vạn xác chết chợt thấy rằng chiến thắng oanh liệt đẩm máu này không thể là sức mạnh tối thượng để có thể chinh phục lòng người. Dù nó mang lại cho người chiến thắng những giây phút vinh quang ngây ngất. Vị hoàng đế trẻ cảm thức sâu xa đó không phải là nguồn suối của bình an và hạnh phúc. Kể từ đó, đế quốc mênh mông không cần được bảo vệ bằng sức mạnh của gươm giáo; thần dân của đế quốc sống trong thái bình thịnh trị, được bảo vệ bằng sức mạnh của từ bi và khoan dung.

Có lẽ chúng ta nên dừng lại ở đây. Hình ảnh ấy đối với nhiều người quá cao xa, nhìn lâu tất choáng ngợp. Dù vậy, tự thâm tâm của mình, không một bạn trẻ nào, dù là nam hay nữ, không cảm nhận rằng mình đang được thúc đẩy bởi một động lực không thể cưỡng, đó là khát vọng chinh phục. Chinh phục tình yêu, chinh phục danh vọng, chinh phục địa vị. Dù nhìn từ góc độ nào, dù tiến theo hướng nào; chúng ta như những trẻ nít đuổi theo cánh bướm. Khi đã nắm được xác bướm trong lòng tay, ít ai tự hỏi: chinh phục và chiến thắng này có ý nghĩa gì? Và ta vẫn mãi miết đuổi theo những cánh bướm này rồi đến cánh bướm khác. Trong lịch sử loài người, có bao nhiêu nhà chinh phục vĩ đại, sau chiến thắng, lại cảm thấy ta cũng chỉ là một con đường yếu đuối trước sức mạnh bao dung của tình yêu nhân loại?

Vó ngựa của Thành-cát-tư Hãn không chùn bước trước bất cứ kẻ thù nào, nhưng tâm tư của Ðại Hãn cảm thấy bất an khi nhìn sâu vào cuối con đường chinh phục một bóng dáng đang thấp thoáng đợi chờ. Ðó là kẻ thù cần phải chinh phục sau cùng. Ðại Hãn cũng biết rằng dẫu cho tập hợp sức mạnh của trăm vạn hùng binh cũng không thể đánh bại kẻ thù ấy, chinh phục vương quốc ấy. Ông cho đi tìm một người trợ thủ, tìm cố vấn thông thái nhất và khôn ngoan nhất để tập hợp được sức mạnh siêu nhiên. Sứ giả của Ðại Hãn đi vào núi Chung nam thỉnh cầu Ðạo trưởng Khưu Xử Cơ. Ðạo trưởng khởi hành, băng sa mạc, đến tận đại bản doanh của Ðại Hãn, để giảng giải cho Ðại Hãn ý nghĩa trường sinh bất tử, những ẩn nghĩa huyền vi từ quyển thiên thư năm nghìn chữ của Thái thượng Lão quân. Cuối quyển thiên thư, khi tất cả ẩn ngữ coi như đã phơi bày ý nghĩa thâm sâu. Khả hãn chỉ xác nhận được một điều: ta sẽ là người chiến bại trong cuộc chiến cuối cùng ấy.

Vậy, ý nghĩa của chinh phục là gì?

Mỗi người trong chúng ta sống và đi tìm một cái gì đó, một ý nghĩa nào đó, cho sự sống hay lẽ sống của mình. Với tuyệt đại đa số, tình yêu và hạnh phúc là lẽ sống, hoặc là tài sản, hoặc danh vọng, hoặc quyền lực, là lẽ sống. Người ta tự đày đọa tâm trí mình, làm khổ nhọc hình hài mình, để đuổi bắt những gì được coi là tinh hoa của đời sống. Người ta cũng biết rằng ngoài những cái lẽ sống phù du, ảo ảnh của hạnh phúc, còn có những phương trời cao rộng, còn có con đường chí thiện; nhưng chỉ một số rất ít người bước theo hướng đó, và lại rất ít người đến đích. Vì sao thế?

Có một nhà nghiên cứu văn học, khi viết về nhà thơ Lý Bạch, không tiếc lời ca ngợi con người tài và đời sống phóng khoáng ấy. Rồi nhà nghiên cứu kết luận: nhưng chúng ta không sốnh như Lý Bạch được, vì chúng ta còn có gia đình vợ con, và nhiều thứ ràng buộc khác. Phải chăng tất cả chúng ta đều sinh ra với một dây thòng lọng treo sẵn nơi cổ, còn Lý Bạch thì không? Phải chăng chúng ta chỉ được phép chiêm ngưỡng, thán phục những cuộc đời và những nhân cách cao thượng, như người hành khất đói rách chỉ được phép từ xa đứng nhìn một cách them thuồng những ngọc ngà châu báu trên thân thể một công nương mỹ miều? Lý Bạch không thể sống như ta, và ta cũng chẳng cần phải trở thành người như Lý Bạch để được người đời thán phục. Mỗi người ẩn chứa trong tự thân một kho báu vô tận. Cần gì phải vay mượn hay ăn cắp giá tri của tha nhân. Không nên tự đánh giá mình quá thấp kém.

Trong số những người bạn trẻ của tôi, không ít người cố vươn lên, tự khẳng định giá trị bản thân; tự cho rằng khi cần và nếu muốn thì có thể khoác lên mình phẩm phục sang nhất, ngồi ở địa vị cao nhất trong xã hội không phải là khó; và khi không cần thiết thì cũng có thể "vứt bỏ ngai vàng như đôi dép rách". Những người bạn ấy, sau một thời gian vật lộn với đời để tự khẳng định giá trị của mình, có bạn "may mắn" leo lên được chiếc ghế cao, bỗng chợt thấy tất cả ý nghĩa và giá trị của đời sống đều được vẽ vời, được khắc chạm lên chiếc ghế này. Từ đó, họ cố buộc chặt mình vào đó, và quyết tâm bảo vệ nó "với bất cứ giá nào".

Cũng có người bạn, sau cuộc tình đổ vỡ, chợt thấy hạnh phúc trong vòng tay chỉ là ảo ảnh. Anh tìm đến tôi sau những ngày lang thang, đau khổ. Không phải anh đến tìm nơi tôi một nguồn an ủi, mà đến để giảng cho tôi một bài pháp rất hay về nghĩa của tình yêu và vĩnh cửu; hạnh phúc chân thật và lẽ sống cao cả, chí thiện. Trong khi lặng lẽ nghe anh nói, cảm thấy như mình đang uống từng giọt nước cam lồ ngưng tụ từ những giọt nước mắt nóng bỏng; và thầm tự hỏi: bạn mình đã "chứng ngộ Niết bàn" rồi chăng? Phải thú nhận rằng, bây giờ, đã ba mươi năm sau, tôi vẫn không quên được "bài thuyết pháp" tuyệt vời ấy. Nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi; anh lại lao mình chạy theo những cuộc tình mới. Tôi hỏi. Anh nói, hương vị ngọt ngào của mối tình đầu ấy không nhạt mờ theo năm tháng được. Nó vĩnh viễn ẩn kín ở một góc tối nào đó trong trái tim anh. Anh đuổi theo những mối tình hời hợt, thoáng chốc; chạy theo danh vọng phù hoa; tất cả chỉ muốn quên đi những gì đã đi và đi mất mà không bao giờ níu kéo lại được. Thỉnh thoảng, nhớ lại anh, tôi tự hỏi, bây giờ thực tế anh đang gặt hái những thành công trên đường đời; nếu nghĩ lại những năm tháng của tuổi trẻ ấy, anh có thấy mình dại dột chăng? Là đuổi bắt ảo ảnh chăng? Và giữa hai quãng đời ấy, thật sự đâu là ảo ảnh?

Người ta nói, tuổi trẻ các bạn đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời; vậy hãy chuẩn bị hành trang mà vào đời. Tôi muốn nói cách khác. Bằng tuổi trẻ của mình đã đì qua, tôi muốn nói rằng, tuổi trẻ các bạn đang được đặt trước hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, hay trước hai ngả đường cần phải lựa chọn không lưỡng lự: tình yêu và sự nghiệp. Trước mặt các bạn là con đường thăm thẳm, đang ẩn hiện mơ hồ dưới ánh sao mai. Chưa phải là buổi bình minh để các bạn thấy rõ mình đang đứng đâu và con đường mình sẽ đi đang dẫn về đâu. Và trước mắt có thật sự là hai ngả đường phải lựa chọn, hay thực tế chỉ một mà thôi? Các bạn sẽ tiến tới theo hướng nào? Học tiến lên theo con đường công danh sự nghiệp, bởi vì "đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông"? Hay săn đuổi bóng dáng một mùa xuân vĩnh cửu? Cả hai ý nghĩa, các bạn trẻ đều hiểu rõ. Chúng ta không cần biện giải dài dòng. Có điều, sự hiểu biết của các bạn về con đường trước mắt không phải do chính mình đã nhìn thấy, như thấy rõ con đường mình đang đi, khi ánh bình minh xuất hiện; mà do dấu vết của nhiều thế hệ đì trước. Dễ có mấy ai tự vạch cho mình một lối đi riêng biệt, không dẫm theo bất cứ lối mòn nào.

Lần bước theo những vết mờ của người đi trước, tuổi trẻ định hướng cho tương lai của mình. Trong số họ, rất ít người bước ra khỏi bóng đêm của rừng rậm, để bằng chính đôi mắt của mình, nhìn thấy rõ con đường đang đi đang chạy theo hướng nào, dưới mặt trời rực sáng của ban mai.

Chúng ta hãy đi tìm một người trong số rất ít người ấy. Người không xa lạ với chúng ta. Tôi muốn nhắc các ban vua Trần Nhân Tông. Tuổi trẻ, lớn lên giữa cung đình xa hoa, đầy lạc thú, nhưng người thiếu niên vương giả lại sống như một ẩn sỹ ngay giữa hoàng thành. Trường trai, khổ hạnh; không biết người ta có nhìn thấy phong độ hào hoa nơi thiếu niên vương giả này hay không. Nhưng vua cha nhìn thân thể gầy còm của người kế vị ngai vàng mà khóc: Biết con có đủ nghị lực để giữ vững giền mối giang sơn chăng? Tuy vậy, con người ấy, về sau, khi ngự trị trên ngai vàng, làm chủ một đất nước, không chỉ đã tự khẳng định giá trị bản thân, mà còn khẳng định ý nghĩa sinh tồn của một dân tộc. Dù ngồi trên bệ rồng cao vời vợi; dù xông pha chiến trận; hay dù trên vó ngựa khải hoàn, từ những chiến thắng oanh liệt; mà cho đến nay, trong bóng đền khuya, trong bóng đêm tịch mịch của lịch sử, chúng ta vẫn mường tượng nhịp mõ công phu và giọng kinh man mác nhưng vẫn rành rọt khí phách anh hùng của bậc quân vương vốn coi ngai vàng như đôi dép bỏ: "Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn bào ảnh". Làm sao trong con mắt nhìn, thế giới này chỉ tồn tại như hạt sương trên đầu cỏ, lại có thể định hướng không chỉ cuộc đời của riêng mình mà cho cả vận mệnh của dân tộc? Hy vọng các bạn trẻ có thể tự mình tìm thấy câu trả lời. Bởi vì, nếu các bạn có thể trả lời được câu hỏi ấy, các bạn cũng có thể định hướng cuộc đời của mình mà không e ngại rằng sẽ có điều nhầm lẫn.

Bây giờ, chúng ta hãy trở lại đề tài thảo luận. Rất nhiều Anh Chị khi nghe đọc lên đề tài, nghĩ rằng diễn giả sẽ nêu lên một hình thái đạo Phật như thế nào đó, sau đó nghiệm xét xem hình thái ấy có những điểm nào phú hợp với tuổi trẻ, ích lợi thiết thực cho tuổi trẻ. Cho đến đây, chưa có hình thái nào được giới thiệu. Có Anh Chị nào cảm thấy thất vọng không? Cũng nên thất vọng một ít. Như thế để chứng tỏ rằng chúng ta đến với đề tài không phải thụ động; ai nói sao nghe vậy. Nhất định, phải có sự lựa chọn; dù không phải là lựa chọn một cách tùy tiện. Khởi đầu của nhận thức, tất phải có sự lựa chọn. Hoạt động trí năng của tuổi trẻ, trước tất cả, là khả năng lựa chọn. Tuổi trẻ học tập để biết lựa chọn. Ðịnh hướng cho tương lai của mình bằng sự lựa chọn sáng suốt.

Các bạn trẻ đang học tập để chuẩn bị cho mình xứng đáng là kẻ thừa sự. Kế thừa gia nghiệp của ông cha, cũng dòng họ. Kế thừa sự nghiệp của dân tộc. Kế thừa di sản nhân loại. Dù đặt ở vị trí nào; bản thân của các bạn trẻ trước hết phải sẽ là người thừa kế. Thành công hay thất bại trong sự nghiệp thừa kế của mình, đó là trách nhiệm của từng người, của từng cá nhân. Hãy tự đào luyện cho mình một trí tuệ, một bản lãnh, để sáng suốt lựa chọn hướng đi, và dũng cảm chịu trách nhiệm những gì ta đã lựa chọn và gây ra cho bản thân và cho cả chúng sanh."
(Nguồn trang nhà quangduc.com)

Qua bài luận, chúng ta lại có thêm một ý niệm lớn. Ý nghĩa của sự nghiệp hay tình cảm không phải để đạt, mà nâng tầm chúng lên một nét đẹp cao quý hơn. Hãy tạo ra một bức tranh tuyệt tác, nhưng cũng đừng quên chổ đứng của mình.

Mượn lời tải đạo trong một ý hướng chân thành. Chúc chư hiền an vui dũng tiến. Adidaphat!

Thích Minh Khương

Bằng Lòng Với Cuộc Sống


hãy bằng lòng với hiện tại đọc tiếp http://goo.gl/M5ndQQ

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Một cuộc đời đi qua
Trong niềm vui hạnh phúc
Một cuộc đời đi qua
Trong khổ đau dập vùi
Ai hay trong sướng khổ
Do chính tại tâm mình
...
Sau một thời gian cần cù và chắt chiu, một người đàn ông nọ đã trở thành người giàu có nhất trong ngôi làng nhỏ bé của mình.
Từ lúc mua đươc một con lừa, anh ta mới có ý nghĩ làm một chuyến đi xa cho biết đó biết đây. Anh đến một ngôi làng khác lớn hơn ngôi làng của anh. Một ngôi nhà thật đẹp và sang trọng đập vào đôi mắt của anh. Sau khi dò hỏi, anh biết được đó là ngôi nhà của người giàu có nhất trong làng.
Anh bèn trở về ngôi làng nhỏ bé của mình và quyết chí làm ăn, dành dụm để có thể may ra xây được một ngôi nhà đẹp hơn ngôi nhà mà anh vừa trông thấy ở ngôi làng bên cạnh. Không mấy chốc, tiền bạc dư dả, không những anh đã xây được một ngôi nhà sang trọng đẹp đẽ hơn mà còn mua được cả đàn ngựa và xe nữa.
Lần này, anh vượt qua các ngôi làng nhỏ để đến một đô thị lớn. Tại đây, đâu đâu anh cũng thấy những ngôi nhà đẹp và ngôi nhà nào cũng đẹp hơn ngôi nhà của anh. Anh nghĩ bụng: cho dẫu có lao nhọc cả quãng đời còn lại, anh cũng không tài nào có thể xây được một ngôi nhà đẹp như thế.
Anh bèn tiu nghỉu đánh xe quay lại ngôi làng cũ của mình. Nhưng rủi thay, xe gặp tai nạn, anh đành phải bỏ chiếc xe để leo lên lưng ngựa cố gắng chạy về ngôi làng cũ của mình. Nhưng dọc đường, vì mệt mỏi và đói lả, ngựa cũng lăn ra chết. Người đàn ông chỉ còn biết lủi thủi đi bộ về nhà.
Đêm đến, giữa sa mạc, anh nhìn thấy một ánh lửa bập bùng từ xa. Anh nấn ná tìm đến và khám phá ra túp lều của một vị ẩn sĩ. Vào trong túp lều, người đàn ông mới nhận ra rằng có lẽ trong đời anh, chưa bao giờ anh thấy có cảnh nghèo nàn cùng cực hơn.
Anh ái ngại nhìn nhà tu hành rồi thắc mắc:
"Thưa ông, làm sao ông có thể sống được trong cảnh cùng cực như thế này?".
Nhà ẩn sĩ mỉm cười đáp:
"Tôi bằng lòng với cuộc sống... Thế còn ông, xem chừng như ông không được thỏa mãn về cuộc sống của ông cho lắm".
Người đàn ông ngạc nhiên hỏi:
"Sao ông biết tôi không được thỏa mãn?".
Nhà ẩn sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt của người đối diện rồi thong thả nói: "
"Tôi nhìn thấy điều đó trong đôi mắt của ông. Đôi mắt của ông cứ chạy theo giàu sang, nhưng sự giàu sang không bao giờ đến với ông... Ông hãy nhìn cảnh hoàng hôn. Ông có thấy những ánh sáng yếu ớt đang chiếu rọi trên cánh đồng không? Chúng tưởng mình đang soi sáng cả vũ trụ. Nhưng không mấy chốc, các ngôi sao mọc lên, và những tia sáng hoàng hôn biến mất. Những ánh sao tưởng chúng đang soi sáng cả bầu trời, nhưng khi mặt trăng vừa ló rạng, thì những ánh sao ấy cũng bắt đàu tắt ngụm. Vầng trăng sáng kia tưởng mình soi sáng cả trái đất, nhưng không mấy chốc, mặt trời mọc lên và mọi thứ ánh sáng của đêm đen đều biến mát. Nếu những thứ ánh sáng trên đây đều biết suy nghĩ về những điều ấy, thì có lẽ chúng sẽ tìm thấy nụ cười đã đánh mất".
Nghe câu chuyện ví von của nhà hiền triết, người đàn ông mở miệng mỉm cười, nhưng nỗi buồn vẫn còn thoáng trên gương mặt ông.
Vị ẩn sĩ tiếp tục câu chuyện:
"Ông có biết rằng sánh với tôi, ông là vua không?".
Người đàn ông tự nhiên so sánh căn nhà của mình với túp lều của vị ẩn sĩ. Nhưng đó không phải là điều mà vị ẩn sĩ muốn nói đến...
Ông cầm chiếc đèn đưa lên cao và mời người đàn ông đến gần bên mình.
Dưới ánh đèn, người đàn ông mới nhận ra rằng vị ẩn sĩ là người không còn ngay cả đôi chân để có thể di chuyển một cách bình thường.

(St) Vườn Thiền

Ngay khi mình không còn gì chưa hẳn là bi kịch. Biết thưởng thức cuộc sống vẫn tốt hơn truy tìm cuộc sống. Người đời thường sống vì danh, mong muốn được khen tặng và ngưởng mộ. Dần dà họ đánh mất đi chính mình, họ chỉ còn là hình ảnh của người khác, đối với bản thân càng trở nên xa lạ. Đôi lúc tự hỏi: " Mình sinh ra trong cuộc đời để làm gì? " - Đáp: "Không biết! "
Một khoảng lặng thật dài...cho đến khi "tìm được việc gì đó để làm, có ai đó để yêu, và có một ước mơ để thực hiện". Nghe như tạm ổn. Nhưng cũng chỉ là theo cùng cảm xúc của mọi người. Rồi một ngả rẽ mới tạo ra trước mắt. Chúng ta lại bất mãn với chính những việc làm của mình, bất mãn với tình yêu, với những ước mơ đã có, bất mãn với tất cả, và chỉ muốn chấm dứt tất cả. Chúng ta hụt hẫn, rồi đi vào ngõ cụt.
Nếu biết rằng cuộc sống chỉ là một trò chơi thì sẽ dễ dàng hơn. Đó là những cảm xúc tương tục được sinh ra rồi chấm dứt, chấm dứt rồi sinh ra. Như khi mới sinh ra mình có biết gì. Lớn lên học cách làm người. Học trường lớp. Học trường đời. Thăng trầm cuộc sống. Mình đã có đủ mọi cảm xúc, mọi cách nhìn, đóng nhiều vai diễn: là con, là cháu, là cha, là mẹ, là ông, là bà, là yêu, là hận, là thương, là ghét... Chúng ta đặt ra nhiều điều lệ, quy cũ, đạo đức sống, nhân cách ứng xử. Rất nhiều những rắc rối được sinh ra từ đó.
Đến một lúc, nhìn lại, chúng ta vẫn vậy thôi. Có gì thay đổi. Điều gì là quan trọng với mình đây?
Khi vướng mắc được tháo ra. Gánh nặng được hạ xuống. Trò chơi đã chấm dứt. Đâu có gì phải thêm vào. Một sự tĩnh sáng vô biên. Tâm hồn nhẹ khỏe như trời xanh, như đất bằng, như cỏ hoa, như dòng nước... Tất cả đều tự nhiên đến đi. Đâu là ranh giới cho đời và đạo. Đâu sinh đối lập là đúng hay sai. Chính khi lầm tưởng mình là trung tâm mới sanh rắc rối. Do mình tự rắc rối. Mình tự vẽ ra uẩn khúc.
"Chỉ cần bằng lòng với cái mình đang có. Chấp nhận với cái mình đã được." Nhận ra mọi hiện hữu đều rất kỳ diệu. Ngày mưa hay nắng. Thuận duyên hay nghịch duyên. Hữu sản hay vô sản. Hoa nở hay hoa tàn. Đâu có gì khác. Như khi có người hỏi Phật: " Khi chấm dứt sinh mạng này, Ngài sẽ về đâu? " - Đức Phật trả lời: " Củi hết, lửa tắt." Thế thôi! Đến từ đâu thì trở về đó.

Hoa trôi trên sóng nước
Có chi để nghĩ bàn
Sống trên dòng sanh diệt
Vẫn như thế, bình an.
Chúc chư hiền ngày mới an vui. Adidaphat!

THÍCH MINH KHƯƠNG

HAI BÀI KINH BÁT NHÃ


MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Pháp học ứng dụng - HAI BÀI KINH BÁT NHÃ

Khi tìm hiểu Phật pháp ta nên bắt đầu từ bài kinh Bát Nhã, đó là tinh hoa của đạo Phật. Mỗi một câu chữ của bài kinh gồm trọn giá trị tồn tại của cuộc sống. Có ai nghĩ rằng cuộc sống luôn thay đổi theo từng niệm cảm. Có ai nghĩ rằng đời người rất ngắn trong một hơi thở vào ra. Có ai nghĩ rằng tất cả đều do duyên sinh rồi cũng do duyên diệt. Không có cái bất biến trong cuộc đời vạn biến. Chỉ có tâm tùy động trong cuộc đời loạn động. Hoặc ý niệm tùy duyên trong cuộc sống phan duyên. Làm sao để nhận ra điều ấy để thoát khỏi những trói buộc của hiện tại?

Pháp hữu Cao Huy Thuần đã luận bàn về Xuân Hạ Thu Đông  http://goo.gl/wdDDP1
 để diễn đạt minh bạch bài pháp này. Mời chư hiền cùng thẩm nghiệm.

Cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
Thơ và đẹp là chuyện của phim. Bằng im lặng, cảnh nói thay người, vì người chẳng có gì để nói. Chẳng có gì để nói giữa ông thầy và chú tiểu. Chẳng có gì để nói giữa chú tiểu và cô gái. Giữa ba nhân vật là một chiếc thuyền, có khi có người chèo, có khi không có người chèo vẫn trôi, trôi từ bờ bên này qua bờ bên kia, từ thế giới bên ngoài không hiện diện qua thế giới ngôi chùa không ai cần nói với ai. Chiếc thuyền là nét động duy nhất giữa tĩnh lặng mênh mông, là vùng vẫy giữa lắng đọng. Nói gì ? Có gì để nói ? Nói gì giữa chú tiểu và cô gái ? Chuyện xảy ra là chuyện tất nhiên, bình thường như xuân hạ thu đông, bốn mùa trôi qua trên mái chùa.
Mới hôm qua, mùa xuân, chú tiểu hãy còn là búp măng, con ai đem bỏ chùa này, ngây thơ đùa nghịch với cóc nhái, rắn rít. Hôm nay, khi cô gái đến, tuổi đời của chú đã bắt đầu vào hạ. Đất trời ấm mùa hạ, cô gái ấm mùa hạ, chú cũng vậy. Chuyện gì xảy ra tất phải xảy ra, chú tiểu hay ai cũng vậy thôi, đất đá cũng biết, nói gì, có gì để nói, bình thường như xuân hạ thu đông, bốn mùa trôi qua.
Cô gái đến chùa để ở lại chữa bệnh. Khi đến, cô u sầu. Dưới mặt trời mùa hạ, trời ấm, người ấm, cô rạng rỡ. Ông sư nói : “Cô lành bệnh rồi đấy, về nhà được rồi”. Ông biết hết, nhưng thản nhiên, như không, có gì để nói ? Cô gái xuống thuyền, thuyền đưa cô từ bờ bên này của núi non qua bờ bên kia của một thế giới chẳng ai biết. Đó là thế giới chú tiểu sắp bước vào, bởi vì, sau khi cô gái đi, chú tiểu cũng khăn gói rời chùa, làm con bướm đuổi theo mùi hương. Trong khăn gói, chú cẩn thận nhét thêm tượng Phật. Nằm trong gói, chắc tượng Phật nói thầm : “chú tiểu ơi, chẳng sao đâu, chú đi như thế cũng tốt như ở, bình thường thôi, xuân hạ thu đông”.
Chùa hai người, bây giờ chỉ còn một. Một ông sư già và một con mèo con. Mặt trời dịu lại, mùa hạ cũng ra đi. Mùa thu dần đến, núi non vàng rực một màu. Nhưng chẳng mấy chốc, chú tiểu trở về. Chú về với râu, với tóc, với tướng mạo hiên ngang của thanh niên đô thị. Và với con dao ! Con dao mà chú đã thọc vào cổ của người yêu bây giờ là người phản. Chú vào chùa, giận dữ bốc cháy người chú. Trong tay chú, con dao như muốn thọc vào cả núi non. Thản nhiên như không, ông sư càng già càng ít nói. Chỉ nói : “ Chú khổ thì người khác cũng khổ ”. Nghe chừng như chuyện khổ cũng tất nhiên, nói gì, có gì để nói, chỉ là xuân hạ thu đông.
Cũng tất nhiên, cảnh sát đến chùa bắt kẻ sát nhân. Cảnh sát có súng. Sát nhân có dao. Dao ấy hươi lên trước súng. Máu sẽ đổ chăng ? Đổ trên sân chùa ? Đổ trên lưng ông già đang lom khom nắn nót viết chữ trên sân ? Đâu có ! Không rời bút, cũng chẳng nhìn lên, ông bảo chàng thanh niên buông dao. Dao buông xuống thì dao hết là dao. Dao hết là dao thì súng cũng hết là súng, cảnh sát hết cảnh sát, thanh niên hết râu tóc. Chỉ còn chữ viết trên sân. Với con dao đã buông, ông bảo chú thanh niên tiếp tục khắc chữ trên nền sân, khắc theo chữ ông viết. Chú khắc suốt ngày và suốt đêm. Khắc rách da tay, khắc kiệt sức. Khắc : sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị... Bài kinh Bát nhã.
Sáng hôm sau, cảnh sát dẫn chú lên thuyền qua bên kia bờ. Mọi chuyện xảy ra như chẳng có gì để nói, chẳng có gì để nói nhiều, tất nhiên như thế. Trừ bài Bát nhã...
Mùa thu trôi qua, tuyết mùa đông phủ trắng núi non. Một mùa tuyết, hai mùa tuyết, chẳng biết bao nhiêu mùa tuyết trôi qua, chỉ biết ông sư già đã tịch. Giữa băng giá phủ kín mặt hồ, bỗng một hôm, giữa mùa tuyết như thế, một người đàn ông đứng tuổi hiện ra, đi từ bờ bên kia qua bờ bên này của ngôi chùa bỏ hoang. Cũng một người ấy thôi, mãn giấc bướm, mãn tù, mãn cuộc đời, quay về chùa cũ. Cũng một người ấy thôi, nhưng không phải người ấy nữa. Người ấy bây giờ là sư.
Có sư, chùa sống lại. Tượng được đặt trên bàn thờ, bế lên núi, ngự trên chóp đỉnh, tạc cả vào băng. Giữa băng giá, sư mình trần leo núi, thách đố với trời đất, thách đố với cả chính mình. Sư thắng. Sư đã từ giã bờ bên kia. Sẽ không còn ai biết sư là ai nữa, kể cả con thuyền khi hết băng giá sẽ nối lại hai bờ, kể cả chính sư. Nhưng từ giã cuộc đời bên kia đâu có phải là diệt nó. Trái lại, phải sống với nó. Mà cuộc đời ở bên kia cũng chẳng để cho sư quên sư đâu. Nó nhắc nhở hành trình của sư ở chính cái chỗ bắt đầu : ở tiếng khóc khi bắt đầu sự sống.
Cho nên, giữa giá băng như thế, một buổi sáng, chùa chưa mở cửa, bỗng vang dội tiếng khóc sơ sinh trước sân. Một thiếu phụ, chẳng biết ai, dấu nước mắt, đem con lên bỏ chùa này, giao cho chùa giọt máu chắc hẳn là kết quả của một hạnh phúc không bền hơn sương tan đầu cỏ. Tiếng khóc ! Trẻ thơ ! Câu chuyện của chính ông sư, có lẽ của cả mọi người, sẽ lặng lẽ diễn ra hàng ngày trước mắt ông. Câu chuyện đó, ông đã quá biết rồi, cho nên có gì xảy ra chắc ông đều sẽ thản nhiên, chẳng nói một lời, nói gì, có gì để nói, bình thường như xuân hạ thu đông trôi qua trên mái chùa của ông.
Đấy, băng giá tan rồi, mùa đông đã trôi qua, một mùa đông, hai mùa đông ...Rồi mùa xuân ! Trẻ sơ sinh đã thành chú tiểu nhỏ, ngây thơ đùa nghịch với cóc nhái, rắn rít đang bò ra khỏi hang. Chỉ chừng mươi mùa xuân nữa thôi là chú tiểu sẽ vào tuổi hạ. Coi chừng, chú sắp rút dao. Sắp khắc trên nền gạch :“có chẳng khác không, không chẳng khác có...” Nói gì nữa, có gì để nói ?...
***

Đáng lẽ người kể chuyện chấm dứt ở đây. Nhưng xem phim mới lại nhớ phim cũ. Nhớ quá, không cắt hai phim ra được, cho nên phải thêm. Cũng tại bài kinh Bát nhã, năng trừ nhất thiết khổ chân thật bất hư. Dứt trừ hết khổ ách, chân thật không hư. Tại sao bài kinh Bát nhã có công năng như vậy ? Tại vì kinh nhắc chữ có cho ai mê muội về không, nhắc chữ không cho ai mê muội về có. Cứ thử mê muội rồi thấm Bát nhã.
“Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân” được sáng tác giữa thời đại mà dục tính phơi tràn trên màn ảnh. Ái dục là đề tài của phim, vấn nạn của nhân vật. Tôi không biết đạo diễn có lấy hứng từ phim cũ không, nhưng tôi liên tưởng đến một phim nổi tiếng của Nhật, Quái Đàm (Kwaidan) (2), chiếu cách đây trên 35 năm, rút từ một chuyện thiền, chẳng có gì giống phim mới ngày nay, trừ bài Bát nhã.
Chuyện như sau, tôi kể theo trí nhớ.
Một chú tiểu mù sống trong một ngôi chùa vắng với một ông sư già. Chú chơi đàn tỳ bà rất hay, tiếng đàn ai oán, ai nghe cũng rơi lụy. Một buổi tối mùa hè đầy sao, chú tiểu đang ngồi trước sân tư lự với sao trên trời, bỗng nghe bước chân lạ của ai đến bên cạnh. Tiếng áo giáp khua. Rồi giọng một võ sĩ : “Chú đừng sợ. Nữ chúa của ta nghe danh cây tỳ bà của chú nên bí mật tới đây cùng với cả triều đình của ngài để mời chú đến đàn cho nghe khúc nhạc kể lại trận thủy chiến ngày xưa xảy ra trong vùng này. Ta đưa chú đi”.
Chú tiểu ngần ngại quá, sợ kẻ lạ, sợ đêm khuya, thầy quở, nhưng võ sĩ nắm tay chú kéo đi. Chú được dẫn đến trước một cung điện nguy nga, tráng lệ . Cả một triều đình bá quan văn võ, quý tộc, công nương, lễ phục oai vệ, uy nghiêm, ngồi lặng yên chờ chú. Trên ngai, chủ trì một nữ chúa, trang phục cực kỳ lộng lẫy. Chú tiểu so dây, lựa khúc, gảy bản đàn nổi tiếng, rồi cất tiếng ca não nùng kể lại trận đánh. Cả triều đình thương cảm, rơi lệ.
Gần sáng, võ sĩ đưa chú về lại chùa, hẹn tối mai sẽ trở lại, sẽ đàn, sẽ yến tiệc, sẽ trả công, sẽ gả người đẹp cho chú, nhưng cấm chú tuyệt đối không được hé miệng kể cho ai nghe chuyện này.
Tối hôm sau. Lại tiếng khua của áo giáp. Lại võ sĩ đến tìm. Lại triều đình oai vệ. Lại đàn hát, nỉ non, ai oán. Trận thủy chiến hiện ra qua bài hát, giáo mác, lửa đạn, thây người, máu chảy, cả triều đình thất trận nhảy xuống sông, nữ chúa gieo mình xuống nước, tự vẫn ...
Đêm hôm đó, đêm hôm sau, đêm sau nữa, cứ đến đêm là ông sư già để ý thấy chú tiểu ôm đàn ra khỏi chùa, đến gần sáng mới về. Ông thầy lo quá, thấy chú tiểu tái xanh, ngớ ngẩn, xa vắng; Chẳng lẽ chú tới nhà gái ? “Này, tiểu, nhỏ nào hớp hồn chú vậy ?” Chú tiểu lắc đầu, câm miệng, khiến thầy càng nghi. Tối đó, sư cho người theo dò, nhưng lạ quá, tiểu đi như lướt trên đất, chẳng đường sá gì cả, vừa mới theo bóng chú đã lạc đâu rồi, mất hút. Quay về lối cũ, bỗng nghe thoảng ra, từ nghĩa trang gần chùa, tiếng tỳ bà. Vào nghĩa địa thì chú đấy, đang ngồi đàn một mình trước mộ hoang của phe thất trận thủy chiến ngày xưa. Mưa đẫm ướt áo, chú vẫn đàn say mê . Gọi, chú chẳng nghe. Lay, chú vẫn ngồi. Vẫn đàn, như không biết gì khác. Phải lôi chú, kéo chú về chùa.
Thế này thì tiểu bị ma bắt rồi - sư nói. Thất trận mấy trăm năm, oan hồn vẫn chưa tan. Vẫn triều đình, vẫn bá quan văn võ, vẫn nghi vệ oai phong, vẫn lộng lẫy nữ chúa. Vẫn thủy chiến. Dưới trời sao. Trước nấm đất hoang. Ông sư mài mực, chấm bút, bảo chú tiểu cởi hết áo quần, viết trên toàn thân kín mít chữ, từ chỏm đầu đến mút chân. Chú tiểu bây giờ chỉ còn là bài kinh biết đi, sắc bất dị không, không bất dị sắc ... Sư nói : “tối nay nó lại đến tìm chú nữa đấy ; cứ tĩnh tọa chú Bát nhã”.
Tối, võ sĩ lại đến, nhưng chẳng thấy chú tiểu đâu cả, chỉ thấy cây tỳ bà vẫn gác nơi vách. Nhìn quanh cây đàn, trống không, chẳng bóng ai, nhưng ô kìa, sao lại có hai cái tai vễnh lên trước mắt, đúng là tai của chú tiểu. Võ sĩ kéo tai ; chú tiểu nhịn đau, chú Bát nhã. Không làm được gì hơn, võ sĩ rút gươm, cắt tai, mang đi. Sư phụ ơi, sư phụ ơi, người đã tuyệt vời năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư kín mít toàn thân, từ chỏm đầu đến mút chân, chỉ quên khuấy yết đế trên hai tai !
Không mắt, không tai, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, chú tiểu bây giờ chỉ còn là cây đàn, tai mắt chú là cây tỳ bà, cây tỳ bà là tai mắt chú, người và đàn là một. Trong chuyện thiền mà cuốn phim lấy hứng, chú tiểu trở thành danh cầm bậc nhất thiên hạ.
***

Hai phim, hai chuyện chẳng giống gì nhau, chỉ cùng mượn hứng từ bài Bát nhã. Sự đời ! Trăm vạn chuyện khác nhau đến mấy, rốt cuộc rồi cũng một chữ ấy mà thôi, không ngộ thì mê, không mê thì ngộ, nói gì, có gì nữa để nói ?

-----------------

(1) Printemps, été, automne, hiver... et printemps (tên Hàn ngữ là Bom, yeorum, gaeul, gyeowool, geurigo, bom, 2003), đạo diễn : Kim Ki-Duk

(2) Phim của Masaki Kobayashi, Nhật Bản (1964). Câu chuyện tác giả kể lại là một trong 4 chuyện hợp thành cuốn phim Kwaidan.

Phim: Xuân, Hạ, Thu, Đông ... rồi Xuân

(St) Vườn thiền

Sống là một cuộc thịnh suy
Chết là một cơ hội làm mới
Đến và đi chỉ là một khoảnh khắc duyên sinh
Người trí biết thuận nước xuôi dòng
Kẻ ngu hay sinh tâm phiền hận
Rồi thì khổ vui đều phải sống
Sao không chọn cho mình một một chút bình yên ?!

Chúc chư hiền tinh tấn an vui. Adidaphat !


THÍCH MINH KHƯƠNG
pt>